Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2017 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXX-ST ngày 08 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H - sinh năm 1978

Chỗ ở hiện nay: Xóm MB, xã TX, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt)

+ Bị đơn: Anh CT - sinh năm 1958

Cư trú tại: Lầu 5, số 32, phố TTNL, khu TL, thành phố ĐV, Đài Loan. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn gửi đến tòa án ngày 13/11/2017, bản tự khai ngày 21/11/2017 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh CT kết hôn ngày 25 tháng 12 năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam.

Sau khi kết hôn, vợ chồng không chung sống với nhau. Ngày 14 tháng 4 năm 2016, Văn phòng Đài Bắc tại Hà Nội - Việt Nam hẹn vợ chồng đến phỏng vấn. Trong quá trình phỏng vấn, vợ chồng trả lời không thống nhất do căng thẳng, lúng túng nên không được thông qua và Văn phòng Đài Bắc tại Hà Nội - Việt Nam từ chối phỏng vấn lại. Anh CT trở về Đài Loan ngay, Chị H ở lại Việt Nam. Nay chị H xác định không sang Đài Loan nữa nên kể từ đó anh chị không gặp nhau. Vợ chồng mỗi người một nơi, không chung sống với nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh CT được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung

Về tài sản chung, nợ chung: Không có

Tại văn bản trả lời của bị đơn anh CT gửi Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. Anh CT xác định về thời gian kết hôn, tình trạng hôn nhân, con chung và tài sản chung, nợ chung phù hợp với lời khai của chị H. Nay anh cũng nhất trí ly hôn với chị H

Về con chung: Vợ chồng không có con chung

Tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: không có.

Hiện nay, do anh bị bệnh trúng phong nên anh không thể đến Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên - Việt Nam để trực tiếp tham gia giải quyết vụ án được và anh cũng đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong vụ án này, bị đơn là người có quốc tịch Đài Loan (Trung Quốc), hiện đang cư trú và làm việc tại Đài Loan được thể hiện trong Hồ sơ vụ án. Do vậy, đây là vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên theo quy định tại điều 37 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ở nước ngoài, không đến Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên để tham gia tố tụng, căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được. Bị đơn đã nhận được đầy đủ các văn bản của Tòa án và đã có đơn đề nghị gửi Tòa án, thể hiện ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án và đồng thời đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228, khoản 5 Điều 477 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa anh CT và chị Phạm Thị H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn, vợ chồng không chung sống với nhau. Ngày 14 tháng 4 năm 2016, Văn phòng Đài Bắc tại Hà Nội - Việt Nam hẹn vợ chồng đến phỏng vấn. Trong quá trình phỏng vấn, vợ chồng trả lời không thống nhất do căng thẳng, lúng túng nên không được thông qua và Văn phòng Đài Bắc tại Hà Nội - Việt Nam từ chối phỏng vấn lại. Anh CT trở về Đài Loan ngay, Chị H ở lại Việt Nam. Nay chị H xác định không sang Đài Loan nữa nên kể từ đó anh chị không gặp nhau. Vợ chồng mỗi người một nơi, không chung sống với nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh CT được ly hôn. Phía anh CT cũng thể hiện quan điểm nhất trí ly hôn tại các văn bản của anh CT gửi về cho Tòa án.

[3] Như vậy, có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh CT và chị H đã trầm trọng, vợ chồng không thực hiện nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, chị H xin ly hôn, anh CT hoàn toàn nhất trí nên cho chị H được ly hôn anh CT là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam.

Về con chung: Các đương sự đều xác định không có.

Tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

Án phí và lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Tuân thủ đúng các quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Các đương sự chấp hành đúng các quy định của pháp luật tại Điều 68, 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H cho chị H được ly hôn anh CT. Con chung không có. Tài sản chung và nợ chung không giải quyết. Chị H phải chịu án phí và lệ phí ủy thác ra nước ngoài theo quy định của pháp luật. Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 37, 40, 147, 153, 207, Khoản 1 Điều 228 và khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình; Khoản 5 Điều 27 và Điều 44 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H được ly hôn anh CT.

2. Về con chung: Không có

3. Tài sản chung: Không giải quyết

- Về nợ chung: Không giải quyết.

* Án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm sung quỹ nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp, biên lai số 0018477 ngày 21/11/2017 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên.

* Lệ phí ủy thác tư pháp: Phạm Thị H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) lệ phí ủy thác tư pháp sung quỹ nhà nước, được trừ vào số tiền 200.0000đ tạm ứng đã nộp số 0018478 ngày 01/12/2017 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên.

Chị H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh CT được quyền kháng cáo trong hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
  • Tên bản án:
    Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    01/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    26/01/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về ly hôn

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về