Bản án 01/2018/HS-ST ngày 04/01/2018 về tội đánh bạc 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 04/01/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 29 tháng 12 năm 2017 và 04 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2017/HSST, ngày 14 tháng 11 năm 2017 đối với các bị cáo:

01- Nguyễn Thành T - sinh năm 1979 (tên gọi khác Chín Nhỏ) tại ấp Thới Khương, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Thới Khương, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 8/12; con ông Nguyễn Văn B (chết) và bà Bùi Kim Kh, vợ là Dương Thị Kim L; bị cáo có 05 người anh chị em ruột, có 02 người con (lớn nhất 11 tuổi, nhỏ nhất 04 tuổi); tiền án: không; tiền sự: Không; bị cáo Nguyễn Thành Tài bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 đến ngày 20/10/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

02- Lý Thành Đ - sinh năm 1981 (tên gọi khác L) tại số 18/179 khu phố Phi Kinh, phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: số 18/179 khu phố Phi Kinh, phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: thợ hồ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 8/12; con ông Lý Văn M và bà Thị Kim X, vợ là Thị Tý N; bị cáo có 04 người anh chị em ruột, có 01 người con (03 tuổi); tiền án: năm 2000, bị Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 16 năm tù về tội giết người, chấp hành án đến ngày 02/9/2010 được dặc xá về địa phương, đã được xóa án tích; tiền sự: Không; bị cáo Lý Thành Đ bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 đến ngày 20/10/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

03- Lê Q - sinh năm 1960 tại ấp Đường Gỗ Vàm, xã Long Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Đường Gỗ Vàm, xã Long Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 9/12; con ông Lê Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị L, vợ là Nguyễn Thị M; bị cáo có 02 người anh chị em ruột, có 03 người con (lớn nhất 34 tuổi, nhỏ nhất 28 tuổi); tiền án: Không; tiền sự: Ngày 06/03/2017, bị Công an xã Thới Quản xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc với mức phạt 1.000.000đ; bị cáo Lê Q bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 đến ngày 12/9/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

04- Huỳnh Văn M - sinh năm 1979 tại ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 3/12; con ông Huỳnh Văn Ả (chết) và bà Trần Thị Q, vợ là Nguyễn Thị T; bị cáo có 07 người anh chị em ruột, có 01 người con (17 tuổi); tiền án: Không; tiền sự: Ngày 03/01/2017, bị Công an xã Thới Quản xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau với mức phạt 500.000đ; bị cáo Huỳnh Văn M bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 và hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gò Quao, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

05- Hồ Văn L - sinh năm 1938 (Hồ Hữu Lực) tại ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 5/12; con ông Hồ Văn L (chết) và bà Dương Thị K (chết), vợ là Kiều Thị Q; bị cáo có 05 người anh chị em ruột, có 03 người con (lớn nhất 47 tuổi, nhỏ nhất 40 tuổi); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo Hồ Văn L bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị khởi tố cho tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

06- Lâm Tùng L - sinh năm 1954 tại ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: buôn bán; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 8/12; con ông Lâm T (chết) và bà Trương Thị N, vợ là Nguyễn Thị T; bị cáo có 03 người anh chị em ruột, có 04 người con (lớn nhất 34 tuổi, nhỏ nhất 26 tuổi); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo Lâm Tùng L bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị khởi tố cho tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

07- Trần Triệu D - sinh năm 1996 tại ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: không ổn định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 11/12; con ông Trần Minh S và bà Nguyễn Thị Diễm T; bị cáo có 03 người anh chị em ruột (bị cáo là người con lớn nhất trong gia đình); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo Trần Triệu Dbị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 đến ngày 20/10/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

08- Trần Văn H - sinh năm 1991tại ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 6/12; con ông Trần Văn H và bà Lê Thị L; bị cáo có 02 người anh chị em ruột (bị cáo là người con út trong gia đình); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo Trần Văn H bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 đến ngày 22/9/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

09- Nguyễn Văn H - sinh năm 1974 tại ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: buôn bán; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 3/12; con ông Nguyễn Văn Q (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết), vợ là Huỳnh Thị T; bị cáo có 08 người anh chị em ruột, có 01 người con (17 tuổi); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo Nguyễn Văn H bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày 27/8/2017 đến ngày 20/10/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

10- Dƣơng Thanh B - sinh năm 1962 tại ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Nơi cư trú: ấp Thới Đông, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: chạy xe ôm; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 6/12; con ông Dương Văn H (chết) và bà Lý Thị Th (chết), vợ là Trần Thị B; bị cáo có 05 người anh chị em ruột, có 03 người con (lớn nhất 27 tuổi, nhỏ nhất 22 tuổi); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo Dương Thanh B bị bắt quả tang vào ngày 24/8/2017, bị tạm giữ 03 ngày, bị tạm giam ngày /8/2017 đến ngày 13/9/2017 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Lê Văn C – sinh năm 1974 (có mặt);

Địa chỉ: ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Nguyễn Văn H - sinh năm 1976 (có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp Hòa Lễ, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 40 phút ngày 24/8/2017, các bị cáo Hồ Văn L, Lâm Tùng L, Trần Triệu D, Nguyễn Thành T, Trần Văn H, Nguyễn Văn H, Dương Thanh B, Lê Q, Lý Thành Đ và Huỳnh Văn M bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi đánh bạc tại nhà của Nguyễn Thành T cư ngụ tại ấp Thới Khương, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Qua kiểm tra tại hiện trường thu được: 150 lá bài tây; 19.576.000đ tiền Việt Nam trong đó trên chiếu bạc là 990.000đ , trên người các đối tượng bắt tại hiện trường là 18.586.000đ; 06 điện thoại di động các loại và 03 xe máy.

Quá trình điều tra xác định được vào khoảng 12 giờ ngày 24/8/2017, các bị cáo Hồ Văn L, L Tùng L, Trần Triệu D, Nguyễn Thành T, Trần Văn H, Nguyễn Văn H, Dương Thanh B, Lê Q, Lý Thành Đ và Huỳnh Văn M tập trung tại nhà Nguyễn Thành T thực hiện hành vi đánh bài ăn tiền. Hình thức chơi loại bài tây 13 lá bài binh Sập Sám, mỗi lần đặt gồm có 01 tụ cái và 03 tụ con, mỗi người làm cái 02 bàn thì tới người khác, mỗi lần đặt tụ là 20.000đ, các bị cáo còn lại không có trong tụ thì ké với tụ cái hoặc tụ con, mỗi lần ké từ 10.000đ đến 20.000đ.

Tại thời điểm bắt quả tang có 10 bị cáo đang tham gia sát phạt với nhau, số tiền Cơ quan Công an thu giữ trên chiếu bạc là 990.000đ và trên người các bị cáo mang theo sử dụng vào việc đánh bạc là 8.577.000đ, trong đó của Nguyễn Thành T là  910.000đ, Huỳnh Văn M là  250.000đ, Lê Q  2.200.000đ, Nguyễn Văn H 1.316.000đ, Trần  Triệu  D  208.000đ, Hồ Văn L 1.455.000đ, Dương Thanh B 296.000đ, Lý Thành  Đ 710.000đ, Lâm Tùng L 687.000đ và Trần Văn H 545.000đ. Số tiền còn lại là 10.009.000đ, 06 điện thoại di động và 03 xe máy quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc đánh bạc nên Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Quao đã trao trả cho chủ sở hữu. Bản Cáo trạng số: 45/KSĐT-TA, ngày 07/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang truy tố các bị cáo Hồ Văn L , Lâm Tùng L, Trần Triệu D, Nguyễn Thành T, Trần Văn H, Nguyễn Văn H, Dương Thanh B, Lê Q, Lý Thành Đ và Huỳnh Văn M về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Thành Tài cùng các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền, khi bị bắt quả tang tổng số tiền dùng để đánh bạc là 9.567.000đ, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với các bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 248 BLHS tuyên bố các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt từng bị cáo như sau: áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Thành T từ 10 đến 15 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lê Q từ 6 đến 8 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Dương Thanh B 5 đến 6 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Trần Triệu D 5 đến 8 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 5 đến 8 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 5 đến 8 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS và điểm o khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Hồ Văn L từ 5 đến 8 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lâm Tùng L từ 5 đến 8 triệu đồng; áp dụng điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lý Thành Đ từ 5 đến 8 triệu đồng và áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Huỳnh Văn M bằng thời hạn tạm giam, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền thu trên chiếu bạc là 990.000đ và tiền mang theo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 8.577.000đ; tịch thu tiêu hủy 150 lá bài tây.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Quao, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thành T và các bị cáo đã khai nhận trong khi đang thực hiện hành vi chơi bài binh sập sám ăn thua bằng tiền với nhau tại nhà của bị cáo Tài thì bị Công an bắt quả tang và bị thu giữ toàn bộ các lá bày tây cùng số tiền 9.567.000đ.

[3] Lời khai nhận của các bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 13 giờ 40  ngày 24/8/2017 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở xác định 10 bị cáo trong vụ án cùng tham gia đánh bày binh sập sám với nhau, hình thức chơi là chia ra 04 tụ, 01 tụ cái, 03 tụ con. Thời điểm bị phát hiện, các bị cáo M, H, Đ vàT là những người trực tiếp binh bày, còn lại các bị cáo Q, B, D, H, L và L tham gia ăn có với các tụ chơi, số tiền ăn thua từ 10.000đ đến 200.000đ. Thời gian các bị cáo tham gia đánh bạc với nhau khoảng 2 giờ thì bị bắt. Khoản tiền bị thu giữ trên chiếu bạc là 990.000.000đ các bị cáo không xác định được phần của mỗi người, còn lại tiền các bị cáo mang theo gồm, bị cáo T 910.000đ, M 250.000đ, Q 2.200.000đ, H 1.316.000đ, D 208.000đ, L 1.455.000đ, B 296.000đ, Đ 710.000đ, L 687.000đ và H là 545.000đ. Các bị cáo đều thừa nhận đây là số tiền dùng để đánh bạc cho nên theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP, ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc được tính là 9.567.000đ, đồng thời đối chiếu với việc áp dụng những tình tiết có lợi cho bị cáo theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành khoản 3 Điều 7 BLHS số 100/2015/QH13 thì số tiền mà các bị cáo dùng để đánh bạc trên 5 triệu đồng nên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.

[4] Với hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức binh sập sám ăn thua bằng tiền có giá trị 9.567.000đ như trên của các bị cáo Hồ Văn L, Lâm Tùng L, Trần Triệu D, Nguyễn Thành T, Trần Văn H, Nguyễn Văn H, Dương Thanh B, Lê Q, Lý Thành Đ và Huỳnh Văn M đã phạm vào tôi “Đánh bạc”, tội phạm và hình được quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã làm xâm hại trật tự quản lý hành chính tại địa phương. Đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội cần phải triệt để ngăn chặn, các bị cáo trong vụ án đa số đều là dân lao động, có cuộc sống kinh tế khó khăn, thế nhưng thay vì tích cực lao động sản xuất để lo cho cuộc sống gia đình thì các bị cáo lại đi tham gia vào việc đánh bạc ăn thua bằng tiền với nhau. Hành vi phạm tội này của các bị cáo không những làm cho bản thân các bị cáo và gia đình càng thêm khốn khó mà còn là nguyên nhân góp phần dẫn tới nhiều vấn nạn tiêu cực khác do cờ bạc sinh ra như trộm cắp, cướp giật… Trong vụ án, có một số bị cáo đã nhiều lần được chính quyền địa phương nhắc nhỡ, có bị cáo đã bị xử phạt hành chính nhưng vẫn ngoan cố thực hiện hành vi phạm tội cho đến khi bị bắt quả tang. Các bị cáo đều là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự cho nên phải bị truy tố và xét xử về hành vi phạm tội của mình, xét đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh của tất cả các bị cáo là có căn cứ HĐXX chấp nhận.

[5] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Bị cáo Tài có vai trò lớn nhất, cung cấp nơi đánh bạc và bài lá cho các bị cáo khác nhưng về nhân thân thì bị cáo có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS; Bị cáo Lê Q cũng mới phạm tội lần đầu nên được áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng bị cáo có nhân thân xấu, có một tiền sự về tội đánh bạc chưa được xóa án tích; Bị cáo B có nhân thân tốt, bản thân là thương binh có công với cách mạng, mới phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng thêm điểm h khoản 1, 2 Điều 46 BLHS; các bị cáo D, H, H, L đều có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đều được áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS; Bị cáo L phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được áp dụng thêm điểm h, khoản 1 Điều 46 BLHS, ngoài ra, bị cáo năm nay đã 79 tuổi nên theo hướng dẫn Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành khoản 3 Điều 7 BLHS số 100/2015/QH13 thì bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên”; Bị cáo Đ có nhân thân xấu, đã bị xử phạt tù về hành vi “Giết người” đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích, hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn nên áp dụng cho bị cáo khoản 2 Điều 46 BLHS; Còn lại bị cáo M có một tiền sự bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối đánh nhau đến nay vẫn chưa chấp hành xong, hiện bị cáo vẫn bị tạm giam do không có người thân nào đứng ra bảo lãnh cho bị cáo theo quy định. HĐXX sẽ xem xét tất cả các tình tiết có liên quan cùng với đề nghị của Viện kiểm sát về mức án dành cho các bị cáo để áp dụng cho các bị cáo hình phạt tương xứng nhằm cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo cũng như nâng cao tác dụng phòng tội phạm chung.

[6] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền thu trên chiếu bạc là 990.000đ và tiền mang theo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 8.577.000đ; tịch thu tiêu hủy 150 lá bài tây.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Các bị cáo Hồ Văn L, Lâm Tùng L, Trần Triệu D, Nguyễn Thành T, Trần Văn H, Nguyễn Văn H, Dương Thanh B, Lê Q, Lý Thành Đ và Huỳnh Văn M phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T (Chín Nhỏ) 12.000.000đ (mười hai triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Lê Q 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Dương Thanh B 5.000.000đ (năm triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Trần Triệu D 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS và điểm o khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015;

- Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn L (Hồ Hữu Lực) 5.000.000đ (năm triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Lâm Tùng L 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Lý Thành Đ (L) 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS;

- Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn M 04 (bốn) tháng 11 (mười một) ngày tù, thời hạn phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam.

- Áp dụng: khoản 5, Điều 227 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

- Tuyên bố: Trả tự do cho bị cáo Huỳnh Văn M tại phiên tòa.

* Về biện pháp tƣ pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền thu trên chiếu bạc là 990.000đ và tiền mang theo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 8.577.000đ; tịch thu tiêu hủy 150 lá bài tây.

* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ Luật tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Hồ Văn L, Lâm Tùng L, Trần Triệu D, Nguyễn Thành T, Trần Văn H, Nguyễn Văn H, Dương Thanh B, Lê Q, Lý Thành Đ và Huỳnh Văn M mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm bằng 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

* Quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 04/01/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

618
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 04/01/2018 về tội đánh bạc 

Số hiệu:01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về