Bản án 01/2018/HSST ngày 12/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 01/2018/HSST NGÀY 12/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2017/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2017/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2017, đối với bị cáo:

Vũ Xuân T, sinh năm 1979, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn BB, xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân G và bà Bùi Thị H; có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1986 và 01 con sinh năm 2006; tiền án: Chưa, tiền sự: Chưa; bị tạm giữ từ ngày 04-10-2017, tạm giam từ ngày 06-10-2017; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Thế M; trú tại: Thôn BT, xã HP, thị xã QT, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Trần Thị V, vắng mặt;

2. Anh Trịnh Văn T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 27-8-2017, Vũ Xuân T đi bộ đến vườn hoa Lê Chân, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng thì gặp người quen là Trần Thị V (trú tại: Thôn AN, xã AL, huyện TN, thành phố Hải Phòng). Trong lúc nói chuyện, T phát hiện 01 xe ô tô nhãn hiệu Landrover biển kiểm soát: 51F-... của anh Nguyễn Thế M đang đỗ tại khu vực trước tượng đài nữ tướng Lê Chân, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng không có ai trông coi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt gương chiếu hậu. Trọng bảo V ngồi chờ và không nói đi đâu. T đi bộ ra chỗ xe ô tô của anh M dùng tay cạy hai mặt gương chiếu hậu của xe ô tô (01 mặt gương chiếu hậu bên trái T giấu vào trong áo phía trước bụng, 01 mặt gương bên phải giấu vào sau lưng). Khi lấy được mặt gương thứ hai, thì ngay lúc đó anh M phát hiện và đuổi theo. T bỏ chạy và gọi V sang đón để tẩu thoát thì V bị anh M giữ lại cùng xe mô tô, còn T vứt lại 01 mặt gương chiếu hậu bên phải rồi chạy thoát. Anh M đưa V cùng tang vật đến Trạm Cảnh sát nhân dân số 1 trình báo vụ việc.

Vật chứng thu giữ: Một mặt gương có vỏ ốp màu đen của xe ô tô biển kiểm soát: 51F-..., một xe máy biển kiểm soát: 14K5-....

Theo Kết luận định giá tài sản ngày 11-9-2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự, Uỷ ban nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng kết luận: 02 mặt gương chiếu hậu xe ô tô biển kiểm soát: 51F-… có giá trị 7.887.000 (bảy triệu tám trăm tám mươi bảy nghìn) đồng.

Đối với một mặt gương chiếu hậu bên phải xe ô tô trên là tài sản hợp pháp của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành viên kinh doanh khai thác vật liệu xây dựng SĐ, anh Nguyễn Thế M được phân công quản lý xe ô tô. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Hồng Bàng đã trả cho anh Nguyễn Thế M.

Đối với một mặt gương chiếu hậu bên trái xe ô tô trên, T đã bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 200.000 đồng, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không thu hồi được.

Tại Cáo trạng số: 72/CT-VKS ngày 10-11-2017 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Vũ Xuân T về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999;

Tại phiên toà, bị cáo Vũ Xuân T khai nhận, vì không có ai trông coi xe ô tô nhãn hiệu Landrover biển kiểm soát: 51F-..., nên đã lén lút dùng tay cạy hai mặt gương chiếu hậu của xe ô tô này, một mặt gương chiếu hậu bên trái T giấu vào trong áo phía trước bụng, một mặt gương bên phải giấu ở sau lưng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ nguyên cáo trạng, quyết định truy tố bị cáo Vũ Xuân T về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Vũ Xuân T từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 04-10-2017. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng, do T đã bán mặt gương chiếu hậu bên trái mà có.

Đối với Trần Thị V là người Vũ Xuân T nhờ chở bằng xe mô tô biển kiểm soát: 14K5-… để tẩu thoát, nhưng V không biết việc T đã thực hiện hành vi phạm tội, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý. Qua xác minh, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của chị V, nên Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại chị Trần Thị V.

Đối với người đàn ông mua một mặt gương chiếu hậu bên trái xe ô tô trên từ T, hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách ra để điều tra làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Xuân T khai nhận hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản như nội dung Cáo trạng đã truy tố; lời khai của bị cáo còn được chứng minh bởi Biên bản ghi lời khai của người bị hại, Biên bản ghi lời khai của người làm chứng; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; phù hợp với Kết luận định giá tài sản ngày 11-9-2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự, Uỷ ban nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; phù hợp với các chứng cứ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Vũ Xuân T có hành vi lén lút dùng tay cạy hai mặt gương chiếu hậu của xe ô tô nhãn hiệu Landrover biển kiểm soát: 51F-.... Như vậy, hành vi của bị cáo Vũ Xuân T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (tức khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999).

[2] Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng là đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đã xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của người khác và gây mất trật tự trị an chung. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là cần thiết.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo qui định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo có thể bị phạt tiền, nhưng xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với một mặt gương chiếu hậu bên phải xe ô tô trên là tài sản hợp pháp của Công ty TNHH MTV kinh doanh khai thác vật liệu xây dựng SĐo, anh Nguyễn Thế M được phân công quản lý xe ô tô. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Hồng Bàng đã trả cho anh Nguyễn Thế M.

[8] Đối với một mặt gương chiếu hậu bên trái xe ô tô trên, T đã bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 200.000 đồng, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không thu hồi được. Vì vậy, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng, do T đã bán mặt gương chiếu hậu bên trái mà có.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe ô tô nhãn hiệu Landrover biển kiểm soát: 51F-.... là tài sản hợp pháp của Công ty TNHH MTV kinh doanh khai thác vật liệu xây dựng SĐo, anh Nguyễn Thế M được phân công quản lý xe ô tô. Theo đó, anh Nguyễn Thế M chịu toàn bộ trách nhiệm khi có mất mát, thiệt hại tài sản xảy ra đối với chiếc xe. Vì vậy, cần xác định anh Nguyễn Thế M là bị hại trong vụ án này. Anh Nguyễn Thế M không yêu cầu bị cáo Vũ Xuân T phải bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét vấn đề bồi thường.

[10] Đối với Trần Thị V là người Vũ Xuân T nhờ chở bằng xe mô tô biển kiểm soát: 14K5-… để tẩu thoát, nhưng V không biết việc T đã thực hiện hành vi phạm tội, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý. Qua xác minh, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của chị V, nên Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại chị Trần Thị V.

[11] Đối với người đàn ông mua một mặt gương chiếu hậu bên trái xe ô tô trên từ T, hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách ra để điều tra làm rõ xử lý sau.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt: Vũ Xuân T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 04 tháng 10 năm 2017.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Xử: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016, Qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo; kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại địa phương đối với người bị hại vắng mặt đều được quyền kháng cáo./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HSST ngày 12/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về