Bản án 01/2018/HS-ST ngày 22/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 22/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TươngDương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2017/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lin Văn T;Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 28 tháng 5 năm1982. Tại huyện K, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản H, xãM, huyện K, tỉnh Nghệ An; Nghề  nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 10/12;

Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lin Văn H và con bà Xeo Thị Ph; có vợ: Lô Thị Ch, và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Là Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam đang bị đình chỉ sinh hoạt; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10 tháng 11 năm 2017 đến nay. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Văn L – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lương Văn A, sinh năm 1993. Trú tại: Bản N , xã M, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 09/11/2017, Lin Văn T đi bộ một mình từ nhà ở Bản H, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An đến bản Phá C, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An tìm mua Hêrôin sử dụng và về bán lẻ kiếm lời, đến nơi thì gặp và mua với một người đàn ông lạ mặt một gói Hêrôin gói bằng bao potylen màu đen với giá7.000.000 đồng. Về nhà, T đem gói Hêrôin mua được mở ra và xúc lấy một ít Hêrôin sử dụng, số còn lại T gói lại cất trong túi quần mà T đang mặc. Đến khoảng 13 giờ ngày 10/11/2017, Lin Văn T đem gói Hêrôin mua được đi vào khu vực Bản H, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An để bán thì nhận được điện thoại của một người đàn ông nói T đưa Hêrôin ra bản N, xã M, huyện Tương Dương để bán, T đồng ý, 14 giờ cùng ngày, khi đến khu vực bản N, xã M thì gặp hai người đàn ông đang đứng ở đường hỏi T: “Anh đưa hàng ra chưa?” (Ý hỏi T đưa Hêrôin chưa?), T trả lời “đưa đây rồi”. Nói xong, T lấy gói Hêrôin trong túi quần ra để bán cho người đàn ông nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ công tác Đồn biên phòng N, thuộc Bộ đội biên phòng tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Bộ đội biên phòng thu giữ ở tay trái Lin Văn T một gói Hêrôin gói bằng bao potylen màu đen bên trong đựng chất bột nén màu trắng và thu giữ trong túi quần phía sau của T đang mặc số tiền 300.000 đồng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại do Công an huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An lập và kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Lin Văn T có trọng lượng là 11 (Mười một) gam.

Bản kết luận giám định số 1070/KL-PC54(MT) ngày 13 tháng 11 năm 2017 của phòng KTHS - Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lin Văn T gửi tới giám định là chất ma túy (Hêrôin).

Kết luận giám định số: 02/GĐ-PC54 (GĐTL) ngày 17/11/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Số tiền 300.000 đồng gồm: một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng, có số seri là: QK 13332226; một tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 50.000 đồng có số seri là NT 16626266; một tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 50.000 đồng có số seri là TK 11794049 là tiền thật do ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Bản cáo trạng số 01/VKS-HS ngày 14 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương đã truy tố Lin Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố của Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Bộ luật hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo: Lin Văn T mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, xử lý vật chứng, buộc bị cáo phải chịu nghĩa vụ án phí theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến gì tranh luận về tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Đề xuất Hội đồng xét xử áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để nhanh chóng trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan, người tiến hành tố tụng.

 [2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lin Văn T đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, khối lượng vật chứng của vụ án và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 10 tháng 11 năm 2017, tại bản N, xã M, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Lin Văn T đang có hành vi giao dịch mua bán trái phép 11 (Mười một)gam Hêrôin với hai người đàn ông lạ mặt. Hành vi bị cáo đã thực hiện cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Như vậy quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương đối với bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Xét về tính chất mức độ hành vi và hậu quả: Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý và sử dụng các chất ma túy của Nhà nước. Xâm phạm đến trật tự xã hội, làm ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của con người là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự có sức khỏe, là lao động chính trong gia đình đáng lẽ ra phải tu chí lao động có thu nhập chính đáng. Nhưng bị cáo đã không làm được điều đó mà có lối sống buông thả, mua Hêrôin tàng trữ trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân và bán lại nhằm thu lợi bất chính, đây là một hành vi pháp luật cấm và xã hội lên án. Do vậy, phải xử lý nhiêm và cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định như lời đề nghị của Kiểm sát viên để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Bị cáo sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình gây ra, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự lên mức hình phạt thấp nhất như lời đề nghị của kiểm sát viên và người bào chữa là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung nhưng qua xác minh, tài sản của bị cáo chỉ đủ duy trì cuộc sống thiết yếu hàng ngày và không có tài sản nào được tạo lập từ việc phạm tội nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo như lời đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa là hoàn toàn phù hợp.

Đối với những người đàn ông đã bán và mua ma túy của bị cáo, do không rõ lai lịch nên cơ quan cảnh sát điều tra chưa có cơ sở để điều tra làm rõ.

[6] Về vật chứng vụ án là vật cấm lưu hành nên cần tiêu hủy. Số tiền 300.000 đồng thu giữ từ bị cáo, tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo thừa nhận số tiền này có được do bị cáo bán ma túy cho hai người đàn ông lạ mặt trước đó, nhưng chỉ lời khai nhận của bị cáo chưa đủ căn cứ khẳng định đây là số tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên áp dụng điểm a khoản 3 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để trả lại cho bị cáo.

 [7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm h khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009.

- Tuyên bố bị cáo Lin Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Xử phạt: Lin Văn T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999; Điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tiêu hủy vật chứng còn lại của vụ án là Hêrôin (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 22 ngày 15.12.2017 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An);

Trả lại cho bị cáo Lin Văn T số tiền 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) thu giữ từ bị cáo (Hiện đang có tại kho bạc nhà nước huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An theo số tài khoản 3949.0.1047736.00000 lập ngày 07/12/2017).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 buộc bị cáo Lin Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 22/01/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 22/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tương Dương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về