Bản án 01/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về xin ly hôn và nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 23/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 275/2018/TLST-HNG§ ngµy 04/12/2018 về việc kiện xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXX-ST ngày 09/01/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: H, sinh năm 1992. ĐKHKTT: Thôn T, xã B, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện ở: Thôn K, xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Anh Phí Quốc H, sinh năm 1990

ĐKHKTT và trú tại: Thôn T, xã B, huyện K, tỉnh Hải Dương. (Nguyên đơn có mặt, bị đơn xin vắng mặt.).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, chị Vũ Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh H được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn đăng ký tại UBND xã B vào ngày 18/9/2015. Do thời gian tìm hiểu nhau ngắn và không kỹ nên sau khi kết hôn vợ chồng không hiểu và thông cảm chia sẻ cho nhau những khó khăn trong cuộc sống. Mặt khác, anh H không chịu lao động, nghiện chơi game, thường đi cả ngày đêm không về. Nhiều lần chị khuyên can nhưng anh H không nghe mà còn chửi mắng và đánh đập chị, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc vô cùng căng thẳng. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 5/2018, đến tháng 11/2018 thì chị đưa con về nhà bố mẹ đẻ sống, cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ đó đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một con chung là Phí Bình A, sinh ngày 23/4/2016. Khi ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai, không ai vay nợ vợ chồng nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại Biên bản lấy lời khai, anh Phí Quốc H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về điều kiện kết và thời gian kết hôn như chị H trình bày. Tuy nhiên, cuộc sống vợ chồng không tránh khỏi những mâu thuẫn và xô xát, trong lúc nóng giận anh có đánh chị H do chị có lời nói xúc phạm và coi thường anh. Đã rất nhiều lần vợ chồng đã cùng nói chuyện để khắc phục tình trạng trên nhưng chị H vẫn không thay đổi khiến cho cuộc sống vợ chồng vô cùng căng thằng. Cuối năm 2018 chị H đã tự ý đưa con về nhà bố mẹ đẻ sống, anh đã nhiều lần xuống tìm và động viên chị H để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị H không đồng ý. Anh đã đón con về sống để mong chị H vì con mà thay đổi nhưng đến nay chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn. Mặc dù tình cảm vợ chồng không còn nhưng anh không đồng ý ly hôn vì anh muốn giữ một gia đình có cả bổ cả mẹ để nuôi dạy con.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một con chung là Phí Bình A, sinh ngày 23/4/2016. Khi ly hôn anh xin được nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai, không ai vay nợ vợ chồng nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Chị H vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Anh H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý vụ án, Thẩm phán đã thụ lý đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, thời hạn giải quyết, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại

phiên toà Hội đồng xét xử đã tuân theo Pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Hướng giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân:    p dụng Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Xử cho chị Hòa được ly hôn anh H. Về con chung:    p dụng Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình. Giao cháu Phí Bình A sinh ngày 23/4/2016 cho chị H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Hòa về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Về quan hệ tài sản: Chị H và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ của vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà, Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương có đủ cơ sở xác định:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Phí Quốc H kết hôn với nhau dựa trên cơ sở tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Dân, huyện Kim thành, tỉnh Hải Dương là hôn nhân hợp pháp. Do vợ chồng bất đồng quan điểm, kinh tế khó khăn nên vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2018. Nay chị H xin ly hôn anh H không đồng ý, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh H thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được; bản thân anh H cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, đánh cãi nhau, cuộc sống chung không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 5/2018. Mặt khác, theo xác minh tại UBND xã Bình dân, ngày 27/11/2018 chị H đi xe máy đến gặp anh H, do mâu thuẫn vợ chồng anh H đã đốt xe máy của chị H và xác minh tại gia đình bố mẹ đẻ anh H thì vợ chồng anh H thường xuyên đánh cãi nhau và vợ chồng đã không sống cùng nhau một thời gian. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể khắc phục, đời sống chung không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc giải quyết cho chị H được ly hôn anh H là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình.

2/ Về quan hệ con chung: Anh chị có 01 con chung là Phí Bình A, sinh ngày 23/4/2016. Khi ly hôn chị H và anh H đều có nguyện vọng xin nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: anh H hiện không có nghề nghiệp, không có thu nhập, về kinh tế vẫn phải phụ thuộc vào bố mẹ đẻ anh; mặt khác, sự việc anh đốt xe của chị H ngày 27/11/2018 Công an huyện Kim Thành vẫnđang điều tra để làm rõ. Còn chị H hiện đang sống cùng bố mẹ đẻ và làm công nhân với thu nhập ổn định 6.000.000 đồng/tháng; hơn nữa cháu Bình A chưa đủ36 tháng tuổi.  Để đảm bảo cho cuộc sống và sự phát triển của cháu Bình A vìvậy cần áp dụng Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu Bình A cho chị H nuôi dưỡng. Chị H tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên cần chấp nhận.

3/ Về quan hệ tài sản: Anh chị không có tài sản chung, không vay nợ ai, không ai vay nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4/ Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án, chị H phải chịu 300.000đồng án phí sơ thẩm ly hôn.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào: Điều 51; Điều 56; Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 39 ; điểm b khoản 1 Điều 227, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

2/  Về quan hệ hôn nhân:

Xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị H xin được ly hôn Phí Quốc H. Xửcho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Phí Quốc H.

3/ Về quan hệ con chung: Chị H và anh H có  01 con chung là Phí Bình A, sinh ngày 24/3/2016. Giao cháu Bình A cho chị H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

4/ Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đồng án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành theo biên lai số AA/2017/0003793 ngày   04 tháng 12 năm 2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về xin ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:01/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về