Bản án 01/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tình Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2019/HSST ngày 14 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/HSST-QĐ ngày 04/3/2019 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1981 tại tỉnh Ninh Bình; thường trú: Xóm 14 xã T, huyện S, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Trần Văn T1 và con bà Phạm Thị T2; có vợ tên Phạm Thị V, sinh năm 1988 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2007; tiền sự, tiền án: Không có. Bị bắt giam ngày 03/12/2018, có mặt.

Bị hại: Anh Lê Đình D, sinh năm 1997; thường trú: Xóm H xã X, huyện C, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Văn N, sinh năm 1984; thường trú: Xóm 16 xã V, huyện L, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.

Người làm chứng

1. Anh Trần Văn Đ, vắng mặt.

2. Anh Phạm Xuân N, vắng mặt.

3. Anh Đỗ Minh T3, vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Trần Thanh D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 4 giờ 30 ngày 03/12/2018, bị cáo Trần Văn T điều khiển xe đạp màu nâu mang theo 01 kìm cộng lực, 01 cưa sắt, 01 cây kéo, 01 đoản bẻ khóa hình chữ T để đi chiếm đoạt tài sản, khoảng 5 giờ cùng ngày T đi đến dãy nhà trọ địa chỉ 18/12 khu phố Thắng Lợi 2, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 37L2-18.660 màu xanh trắng của anh Lê Đình D đang dựng phía chân cầu thang, cổng nhà trọ không khóa. Bị cáo T dựng xe bên ngoài cổng đi bộ vào tiếp cận xe mô tô, dùng kìm cộng lực cắt ổ khóa dây xích phía sau xe, T dắt xe ra ngoài đường khoảng 100m rồi tiếp tục sử dụng đoản mở ổ khóa điện nhưng xe không nổ máy. T tiếp tục dắt xe đi tìm người phá ổ khóa thì gặp anh D, T bỏ xe lại chạy bộ bị anh D cùng người dân bắt giữ giao Công an phường Dĩ An.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 37L2-18.660 màu xanh - Trắng; 01 xe đạp màu nâu; 01 kìm cộng lực; 01 cây cưa sắt; 01 đoản bẻ khóa hình chữ T, 01 cây kéo.

Kết luận định giá tài sản số 347/BB.ĐG ngày 12/12/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 37L2-18.660 màu xanh - trắng trị giá 16.500.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Đình D đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, anh D không yêu cầu bồi thường gì khác.

Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 12/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T từ 09 đến 12 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 kìm cộng lực; 01 cây cưa sắt; 01 đoản bẻ khóa hình chữ T, 01 cây kéo. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe đạp màu nâu.

Trước khi hội đồng xét xử nghị án, bị cáo T nói lời sau cùng: Bị cáo xin được giảm nhẹ mức án để sớm về hòa nhập cộng đồng làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn T khai nhận khoảng 5 giờ ngày 03/12/2018 bị cáo lén lút sử dụng 01 kìm cộng lực, đoản bẻ khóa hình chữ T để cắt dây xích đang khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 37 L2-18.660 của anh Lê Đình D có trị giá 16.500.000 đồng, khi T dắt xe đi để tìm người mở ổ khóa xe thì bị anh D bắt giữ.

Điều 173 Tội trộm cắp tài sản, Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 12/02/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm do bị cáo T thực hiện là ít nghiêm trọng, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của anh Lê Đình D được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo T mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm bị cáo thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Lê Đình D đã nhận tài sản là xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 37L2-18.660 và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Do vậy, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về vật chứng: 01 kìm cộng lực; 01 cây cưa sắt; 01 đoản bẻ khóa hình chữ T; 01 cây kéo sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xe đạp màu nâu còn giá trị sử dụng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng và mức hình phạt đối với bị cáo T quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2018.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe đạp màu nâu. Tịch thu tiêu hủy: 01 kìm cộng lực; 01 cây cưa sắt; 01 đoản bẻ khóa hình chữ T; 01 cây kéo. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/02/2019

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về