Bản án 01/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M, sinh năm 1973; Nơi sinh: Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; Nơi ĐKNKTT: Khu phố B, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Con ông Nguyễn Văn P (chết) và bà Phan Thị N, sinh năm 1940;Có 07 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ năm; Vợ: Nguyễn Thị Hoàng Y, sinh năm 1978; Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 13/9/2018 đến ngày 21/9/2018 được trả tự do. Ngày 15/10/2018 bị bắt tạm giam, đến ngày 09/11/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn. Hiện đang thi hành Quyết định về việc Bảo lĩnh số 01/QĐ-TA ngày 09/12/2018 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi. Bị cáo có mặt.

* Bị hại: Ông Đặng Văn Th, sinh năm 1971 (Đã chết);

Đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1987 (Có mặt);

Cùng cư trú: Khu phố B, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 (Có mặt);

2. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1970 (Có mặt);

3. Anh Trần Văn H, sinh năm 1970 (Có mặt);

4. Anh Trần Văn Q, sinh năm: 1987 (Vắng mặt)

Cùng cư trú: Khu phố B, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

* Người làm chứng:

- Chị Huỳnh Thị Mỹ G, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Khu phố B, phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

- Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Khu phố M, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

- Chị Vũ Thị Đ, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Khu phố H, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ ngày 10/9/2018, Nguyễn Văn M cùng Đặng Văn Th, Trần Văn H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn B và Trần Văn Q đến quán thịt cầy N Đ ở khu phố H, phường T để nhậu, đến khoảng 19 giờ cùng ngày, cả nhóm thanh toán tiền ra về thì lúc này xảy ra mâu thuẫn giữa B và H, dẫn đến xô xát đánh nhau nên M đến ôm H lại mục đích để can ra thì Th chạy đến ôm phía sau lưng của M, M thấy vậy nghĩ Th bênh vực H nên M thúc cùi chỏ tay phải ra phía sau trúng vào người T nhưng M không xác định được trúng vào vị trí nào trên người Th. Lúc này Th thả tay ra, sau đó M quay lại đứng đối diện dùng tay phải tát một cái vào mặt Th làm Th ngã, vùng đầu bên phải đập xuống nền bê tông xi măng của quán gây chảy máu tai bất tỉnh. Lúc này T đỡ Th dậy, dìu ra đường nhựa rồi đặt Th xuống đường và kêu gọi mọi người đưa Th đến bệnh viện đa khoa khu vực L, Bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu, điều trị đến ngày 11/9/2018 thì Th tử vong. Ngày 13/9/2018, Nguyễn Văn M đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã La Gi đầu thú, khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

* Theo bản Kết luận giám định pháp y về mô bệnh học số 66/2018/MBH ngày 20/9/2018 đối với Đặng Văn Th của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Đa vết sây xát da vùng thái dương phải, vùng đỉnh chẩm.

- Vết mổ sọ não cũ từ giữa trán kéo vòng sau thái dương đỉnh phải: Khuyết xương sọ vùng trán đỉnh – thái dương phải. Màng não căng phồng, mô não vùng đỉnh phải phù nề, tụ máu vùng thái dương – chẩm trái, hoại tử nhu mô não vùng thái dương – chẩm phải.

2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não nặng -> tử vong.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

* Về dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn M đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Đặng Văn Th là chị Nguyễn Thị L tổng số tiền là 596.000.000 đồng, trong đó bao gồm chi phí điều trị vết thương, mai táng phí, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị L thừa nhận đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về dân sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại bản cáo trạng số: 98/CT-VKS ngày 30/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội: “Cố ý gây thương tích” theo Điểm a Khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M, phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Nguyễn Văn M, mức án từ: 05 năm đến 05 năm 06 tháng.

*Ý kiến của bị cáoNguyễn Văn M: Đồng ý với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

* Ý kiến của đại diện hợp pháp của bị hại Đặng Văn Th là chị Nguyễn Thị L: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.Ngoài ra, không có ý kiến tranh luận.

* Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn B, Trần Văn H: Đồng ý với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Nguyễn Văn M nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các quyết định và hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã La Gi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diên hợp pháp của bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt anh Trần Văn Q và những người làm chứng. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa đều đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục việc xét xử. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử, lời khai, ý kiến của họ đã thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án. Căn cứ Điều 292 và 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, xét thấy lời khai của bị cáo Nguyễn Văn M khai nhận tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 10/9/2018, tại quán thị cầy N Đ thuộc khu phố H, phường T, thị xã L, do mâu thuẫn trong lúc cùng can ngăn một số người trong bàn nhậu xô xát, Nguyễn Văn M đã có hành vi dùng tay phải tát một cái vào vào vùng mặt bị hại Đặng Văn Th làm Thiện té ngã, vùng đầu bên phải đập xuống nền bê tông xi măng của quán, gây chấn thương sọ não nặng dẫn đến tử vong vào ngày 11/9/2018.

Qua điều tra xác định thì khi đánh anh Th, bị cáo không có động cơ, không có ý muốn tước đoạt tính mạng của anh Th; việc anh Th tử vong là ngoài ý muốn, không phải là mục đích của bị cáo.

Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

4.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:

a) Làm chết người;…”

Đối chiếu với quy định trên thì hành vi dùng vũ lực tác động vào cơ thể người khác gây nên thương tích, dẫn đến làm chết người của bị cáo Nguyễn Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo Điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn M về tội danh, điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo tuy vô ý với hậu quả chết người, nhưng cố ý với hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác, thể hiện sự xem thường pháp luật, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần xử lý nghiêm, phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện nhằm răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tích cực bồi thường dân sự cho đại diện hợp pháp của bị hại và được đại diện hợp pháp của bị hại bãi nại, thiết tha xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, bị cáo đang bị bệnh tim. Do đó, cần áp dụng cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhất thời phạm tội nên cần áp dụng quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án thấp, trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố, cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì về dân sự nên không đặt ra để xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự;

Các Điều 135, 136, 292, 293, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Về hình phạt: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn M 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù;thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2018 đến ngày 21/9/2018 và từ ngày 15/10/2018 đến ngày 09/11/2018.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi bổ sung 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về