Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 242/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Hunh Văn C, sinh năm 1988 tại tỉnh Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: Ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Văn B và bà Nguyễn Thị C; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Tấn N, sinh năm 1999.

Đa chỉ: Khu phố 1, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương – vắng mặt.

2. Ông Lê Tuấn A, sinh năm 1995.

Đa chỉ: Khu phố 5, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương – vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Hoàng Văn L, sinh năm 1988.

Đa chỉ: Khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương – vắng mặt.

2. Bà Huỳnh Thị Mỹ T, sinh năm 1997.

Hộ khẩu thường trú: Ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hunh Văn C làm nghề sơn nước.

Khong 06 giờ ngày 09/7/2019, Huỳnh Văn C điều khiển xe mô tô hiệu Wanda biển số 66G1 – 380.40 đi từ nhà trọ không tên thuộc khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương đến chốt dân quân tự vệ khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương để làm sơn nước, sơn chốt dân quân. Tại đây, ông Nguyễn Tấn N, ông Lê Tuấn A và ông Phan Hồng H là dân quân khu phố 6, đang quét dọn vệ sinh xung quanh chốt dân quân. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, Ca thấy phía sau bếp của chốt dân quân có 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone 6 màu vàng gold của ông N và 01 bóp da màu đen của ông Tuấn A để ở trên bàn Inox. Lúc này, C thấy không có người xung quanh thì nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại và tiền trong bóp da nên lén lút đi lại lấy điện thoại Iphone 6 và lục bóp da lấy được số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng), bỏ vào túi quần. Sau đó, C đi ra điều khiển xe mô tô biển số 66G1 – 380.40 chạy đến cửa hàng sửa chữa điện thoại H ở khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương của ông Hoàng Văn L làm chủ, kêu bán chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu vàng gold và dùng số tiền 400.000 đồng trộm được mua 01 thẻ card điện thoại mạng Vietnamobile mệnh giá 20.000 đồng. Lúc này, ông L hỏi mật khẩu Icloud của điện thoại thì C nói quên không nhớ mật khẩu. Ông L tin tưởng và đồng ý mua điện thoại với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Đi với ông Nguyễn Tấn N và ông Lê Tuấn A, ngay sau khi C điều khiển xe mô tô chạy đi, ông N và Tuấn A đi vào trong chốt phát hiện mất điện thoại và tiền. Do điện thoại của ông N có cài đặt mật khẩu Icloud nên ông N định vị Icloud và cùng ông Tuấn A, ông H đi theo định vị thì phát hiện chiếc điện thoại Iphone 6 của N ở tiệm sửa chữa điện thoại H ở khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, ông N và Tuấn A đi vào tiệm H thì gặp C vừa bán điện thoại xong cho ông Hoàng Văn L. Ông N và ông Tuấn A giữ C lại và báo Công an phường Thới Hòa đến mời C về trụ sở làm việc. Sau đó, vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Huỳnh Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Ngày 09/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiến hành thu giữ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng gold; tiền mặt 380.000 đồng (ba trăm tám mươi nghìn đồng); 01 thẻ card điện thoại mạng Vietnamobile và 01 (một) mô tô hiệu Wanda biển số 66G1 – 380.40; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 66G1 – 380.40.

Theo Kết luận định giá ngày 20/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Bến Cát, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, đã qua sử dụng trị giá 4.900.000 đồng (Bốn triệu chín trăm nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn C mức án từ 06 đến 08 tháng tù cho hưởng án treo.

Về vật chứng:

Xe mô tô hiệu Wanda biển số 66G1 – 380.40 của bà Huỳnh Thị Mỹ T đứng tên chủ sở hữu. Ngày 09/7/2019, bà Tiên cho Huỳnh Văn C mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết C sử dụng xe đi tiêu thụ tài sản trộm cắp. Ngày 21/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử lý vật chứng số 179 trao trả xe và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 66G1 – 380.40 cho bà T là có căn cứ.

Ngày 21/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát định xử lý vật chứng trả cho: Ông Nguyễn Tấn N 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 6 màu vàng gold; trả cho ông Lê Tuấn A số tiền 380.000 đồng và 01 thẻ card điện thoại mạng Vietnamobile mệnh giá 20.000 đồng. Ông N và ông Tuấn A không yêu cầu gì khác.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 09/7/2019, Huỳnh Văn C có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone 6 màu vàng gold của ông Nguyễn Tấn N và số tiền 400.000 đồng nằm trong 01 bóp da màu đen của ông Lê Tuấn A tại chốt dân quân tự vệ ở khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Theo Kết luận định giá ngày 20/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Bến Cát, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, đã qua sử dụng trị giá 4.900.000 đồng (bốn triệu chín trăm nghìn đồng).

Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của bị hại, bị cáo đã có vi lén lút lấy trộm tài sản của người bị hại. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham lam tư lợi nên bị cáo đã cố tình thực hiện. Do đó cần phải có hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt được đã giao trả cho bị hại nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó, xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại xã hội cũng đủ để bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Do vậy, chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát sẽ áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.

[3] Về dân sự: Đã giải quyết xong do bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.

4] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn C phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn C 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Huỳnh Văn C cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

(Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự).

2. Về dân sự: Đã giải quyết xong.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Huỳnh Văn C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về