Bản án 02/2017/HSPT ngày 13/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 02/2017/HSPT NGÀY 13/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13/11/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2017/TLPT-HS ngày 02/10/2017 đối với bị cáo Lò Thị M do có kháng cáo của bị cáo Lò Thị M đối với bản án hình sự sơ thẩm 42/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện QN, tỉnh Sơn La.

Bị cáo có kháng cáo:

- Lò Thị M, sinh năm 1996; nơi ĐKHKTT: Bản PN1, xã MG, huyện QN, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 11/12. Dân tộc: Kháng; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn Th và bà Lò Thị O; có chồng là Lò Văn Th1 và có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang tại ngoại (có mặt).

Người bị hại không có kháng cáo, Tòa không triệu tập:

- Hoàng Văn Th2, sinh năm 1985; trú tại: Bản K, xã PK, huyện QN, tỉnh Sơn La

NHẬN THẤY

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện QN và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện QN, tỉnh Sơn La thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 18/5/2017, Hoàng Văn Th2 (trú tại: Bản K, xã PK, huyện QN, tỉnh Sơn La) là học viên lớp học may của Công ty Cổ phần dệt may SL (địa chỉ tại bản PN 3, xã MG, huyện QN) để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 SE, 01 chiếc máy tính bảng nhãn hiệu ASUS Fone Pad 7 trong cặp màu đen ở trên mặt bàn máy khâu trong lớp học, khi đi ăn cơm Th2 có nhắc các bạn nếu ai đi sau cùng thì nhớ đóng cửa lớp lại vì Th2 để lại tài sản trong lớp. Lò Thị M (trú tại: Bản PN1, xã MG, huyện QN) là học viên cùng lớp nghe được lời dặn của Th2 nên sau khi ăn cơm xong M về lớp trước. Khi về đến phòng học A6 chỉ có một mình nên M nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của Th2, M đi về phía bàn máy khâu của Th dùng tay phải lùa vào trong ngăn cặp lấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 SE và 01 máy tính bảng nhãn hiệu ASUS Fone Pad 7 rồi đem xuống tầng một gói vào chiếc áo mưa màu xanh lá cây và cất vào cốp xe máy của M tại nhà để xe của Công ty Cổ phần dệt may SL. Giấu xong M quay lại lớp học được khoảng 10 phút thì Th2 phát hiện bị mất tài sản nên báo lại với giáo viên đứng lớp rồi cùng các bạn học viên trong lớp truy tìm tài sản bị mất. M sợ hành vi bị lộ nên đã ra khỏi phòng, xuống chỗ để xe máy mở cốp lấy bọc áo mưa đi lên tầng hai giấu tại khe hở giữa hai lan can ở hành lang và vào lớp học bình thường.

Trong lúc M giấu tài sản của Th2 ở lan can thì có Là Văn H (trú tại: Bản PN1, xã MG, huyện QN) cũng là học viên của Công ty cổ phần dệt may SL nhìn thấy hành vi của M nên H đi tới chỗ Minh giấu đồ, lấy cuộn áo mưa của M vừa cất giấu, mở ra xem thì thấy có điện thoại và máy tính bảng nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt, H liền đem về cất giấu tại gầm sàn nhà mình. Đến ngày 19/5/2017, hành vi của Lò Thị M và Là Văn H bị cơ quan điều tra Công an huyện QN phát hiện.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon màu hồng, 01 quyển sổ hộ khẩu, 02 điện thoại di động, 01 máy tính bảng, 01 áo mưa (trong đó có 01 điện thoại của Là Văn H).

Tại bản kết luận định giá số 07/KL-HĐĐG ngày 23/5/2017 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 máy tính bảng nhãn hiệu ASUS Fone Pad 7 có trị giá là 2.394.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 SE có trị giá là 1.020.000 đồng, tổng giá trị 02 loại tài sản là 3.414.000 đồng.

Đối với Là Văn H: Trong quá trình điều tra xác định hành vi của Là Văn H độc lập với hành vi của Lò Thị M và Là Văn H đang có những biểu hiện không bình thường về tinh thần (lúc nhớ, lúc quên, hay ngồi nói một mình), H đang điều trị bệnh tại nhà theo liệu trình của bệnh viện tâm thần tỉnh Sơn La, nên cơ quan điều tra tách ra xử lý ở một vụ án khác.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 42/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện QN, tỉnh Sơn La đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lò Thị M phạm tội: Trộm cắp tài sản.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Thị M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt vào trại thi hành án.

- Về vật chứng: Tuyên tiêu hủy 01 túi nilon màu hồng đã qua sử dụng, 01 chiếc áo mưa loại áo mưa trùm có mũ màu xanh lá cây, áo đã qua sử dụng;

Tuyên trả cho bà Ngần Thị L 01 quyển sổ hộ khẩu tên chủ hộ Ngần Thị L, số sổ 530197494, gồm 16 trang.

Tiếp tục tạm giữ 01 chiếc điện thoại cảm ứng nhãn hiệu OPPO, số kiểu A37F màu vàng cát, đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong (Điện thoại được đựng trong 01 phong bì ở mép dán mặt sau của phong bì có chữ: Là Văn H).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/8/2017 bị cáo Lò Thị M đã có đơn kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Thị M giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại vụ án.

Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát: Cấp sơ thẩm xác định đối tượng Là Văn H có biểu hiện của bệnh tâm thần và được gia đình đưa đi điều trị tại Bệnh viện tâm thần tỉnh Sơn La, nên tách ra xử lý ở vụ án khác. Tuy nhiên, lời khai nhận tội của Là Văn H tại cơ quan điều tra là chứng cứ quan trọng chứng minh hành vi phạm tội của Lò Thị M, nhưng trong quá trình điều tra chưa thực hiện việc giám định pháp y tâm thần đối với Là Văn H để xác định trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội Là Văn H có bị hạn chế hay mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi hay không; cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Lò Thị M có mang thai hay không; cấp sơ thẩm không đưa Là Văn H tham gia tố tụng nhưng lại xử lý tài sản (chiếc điện thoại OPPO) của Là Văn H.

Do cấp sơ thẩm điều tra không đầy đủ và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248, khoản 1 Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự: Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Thị M không thừa nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc máy tính bảng của anh Hoàng Văn Th2 như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện QN và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện QN đã nêu.

Bị cáo khai: Ngày 18/5/2017, do trời mưa nên bị cáo có sử dụng chiếc áo mưa màu xanh lá cây của gia đình và đi xe máy đến lớp học may của Công ty Cổ phần dệt may Sơn La, do áo mưa ướt nên bị cáo cuộn lại và treo cùng sổ hộ khẩu của gia đình vào móc treo trên yếm xe máy của bị cáo. Đến buổi trưa cùng ngày, khi mọi người đi ăn cơm trở về lớp thì anh Lò Văn Th2 phát hiện bị mất điện thoại và máy tính bảng, theo yêu cầu của giáo viên đứng lớp bị cáo cùng các bạn học đều ở lại trong lớp học, bị cáo không được đi ra ngoài. Chiếc áo mưa và quyển sổ hộ khẩu bị cáo để ở xe máy không biết bị người khác lấy trộm từ khi nào. Tại cơ quan điều tra bị cáo có được khai nhận hành vi phạm tội, nhưng lời khai đó là không đúng, bị cáo khai được trộm điện thoại và máy tính bảng của anh Hoàng Văn Th là do bị cán bị Công an đe dọa và bị ép khai như vậy. Bị cáo không quen biết Là Văn H, điện thoại và máy tính bảng của anh Th2 bị mất trộm cơ quan điều tra thu được tại nhà của Là Văn H nhưng H lại vu oan cho bị cáo lấy trộm điện thoại, máy tính bảng của anh Th2.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Lò Thị M không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra là do bị ép buộc, nhận tội thay người khác, các chứng cứ trong hồ sơ vụ án là không khách quan. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa phân tích, đánh giá các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét lời khai chối tội của bị cáo có căn cứ hay không mà chỉ căn cứ vào đơn trình báo của người bị hại về việc mất tài sản, kết luận định giá về số tài sản bị hại bị chiếm đoạt có trị giá 3.414.000đ để kết luận bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của người bị hại là chưa đầy đủ chứng cứ, cụ thể:

- Trong vụ án, tại cơ quan điều tra đối tượng Là Văn H có khai nhận H đã thực hiện hành vi chiếm đoạt lại số tài sản bị cáo Lò Thị M đã chiếm đoạt của anh Hoàng Văn Th2, H là người biết rõ các tình tiết Lò Thị M cất giấu tài sản đã trộm cắp được, mặt khác số vật chứng của vụ án được Là Văn H giao nộp cho cơ quan điều tra. Sau đó ngày 30/5/2017 Là Văn H được gia đình cho đi khám, điều trị tại Bệnh viện tâm thần Sơn La do có biểu hiện của bệnh tâm thần (tại giấy xác nhận số 47/GXN-BVTT ngày 30/5/2017 của Bệnh viện tâm thần Sơn La kết luận Là Văn H mắc bệnh “Các rối loạn thích ứng (F43.2)”). Do xác định hành vi trộm cắp của Là Văn H là độc lập với hành vi trộm cắp tài sản của Lò Thị M và Là Văn H cần phải tiến hành giám định tâm thần nên cấp sơ thẩm đã tách hành vi của Là Văn H ra để xử lý sau. Tuy nhiên, việc tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với Là Văn H lại không được cơ quan điều tra thực hiện trong quá trình điều tra đối với bị cáo Lò Thị M. Do đó, không có cơ sở xác định các lời khai của Là Văn H tại cơ quan điều tra được ghi nhận trong tình trạng nhận thức của H như thế nào (có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào). Đây là chứng cứ quan trọng để để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội”, nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ.

- Tại Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 21/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QN, thể hiện lý lịch của Lò Thị M “có một con 01 tuổi và đang mang thai con thứ hai” (Tại hồ sơ thể hiện có 01 bản kết quả siêu âm thai đối với Lò Thị M ngày 30/5/2017 của Phòng khám đa khoa HA - Địa chỉ: Xóm 4, xã MG, huyện QN, Sơn La, xác định Lò Thị M có thai tương đương 7 tuần 02 ngày tuổi, dự kiến sinh con ngày 14/01/2018), theo bị cáo khai giấy siêu âm trên là do bị cáo giao nộp. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ bị cáo có mang thai hay không, đây là chứng cứ chứng minh tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, tại Bản án số 42/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện QNh, không đưa Là Văn H (hoặc người đại diện hợp pháp của H) tham gia tố tụng nhưng lại quyết định xử lý tài sản (chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO) của Là Văn H là không đảm bảo quyền lợi của người có tài sản liên quan đến vụ án.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, do đó cần hủy bản án sơ thẩm, để điều tra lại.

Bị cáo Lò Thị M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do bản án sơ thẩm bị hủy.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 248, khoản 1 Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự,

1/ Hủy bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện QN, tỉnh Sơn La, chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện QN, tỉnh Sơn La để điều tra lại theo thủ tục chung.

2/ Về án phí: Bị cáo Lò Thị M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2017/HSPT ngày 13/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về