Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 23/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN 

BẢN ÁN 02/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 23 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nam Đàn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 176/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2017 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2017/QĐXXST – HNGĐ, ngày 27 tháng 12 năm 2017; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bạch Thị ML, sinh năm 1990.

Nơi ĐKHKTT: Xóm X, xã NT, huyện ND, tỉnh Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: Xóm Y, xã ND, huyện N, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Hoàng T, sinh năm 1984.

Địa chỉ cư trú: Xóm XY, xã NT, huyện ND, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/11/2017 cũng như bản tự khai, lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn chị Bạch Thị ML trình bày:

Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Lê Hoàng T đăng ký kết hôn ngày 17 tháng 02 năm 2016 tại UBND xã NT, huyện ND, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, nguyên đơn đi làm ở thành phố Vinh, bị đơn đi làm ở thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, hai vợ chồng mỗi người một nơi, nhưng chồng vẫn đi về thường xuyên, vợ chồng quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một năm thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chồng không quan tâm, chăm sóc vợ con mà thường xuyên mắng chửi, đánh đập khiến cuộc sống chung luôn căng thẳng, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Nguyên đơn đưa con về nhà ngoại sống và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2016 đến nay. Nay nguyên đơn thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh Lê Hoàng T để giải phóng cho nhau.

Tại bản tự khai ngày 27/12/2017 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Hoàng T thống nhất lời khai của nguyên đơn về xác lập quan hệ hôn nhân và điều kiện chung sống. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng tuy ở xa nhau nhưng vẫn quan tâm, chăm sóc nhau, không có mâu thuẫn gì lớn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, xảy ra cãi vã. Cũng vì mâu thuẫn như vậy nên vợ chồng không quan tâm, hỏi han, chăm sóc nhau nữa. Nhưng bị đơn nhận thấy vợ chồng vẫn còn tình cảm, mâu thuẫn không lớn, có thể hòa giải được, nên bị đơn có nguyện vọng vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi dạy con.

Về con chung: Chị Bạch Thị ML và anh Lê Hoàng T thống nhất khai: Vợ chồng có một con chung là Lê Bạch TN, sinh ngày 06/9/2016. Khi ly hôn, nguyên đơn và bị đơn đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và các khoản nợ của vợ chồng: Chị Bạch Thị ML và anh Lê Hoàng T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Toà án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định đúng quan hệ tranh chấp; trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ, Thẩm phán chấp hành đúng quy định tại điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình thu thập chứng cứ, thủ tục tống đạt đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đã thực hiện theo đúng trình tự theo quy định từ điều 239 đến điều 260 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử: Về tình cảm: Chị Bạch Thị ML được ly hôn anh Lê Hoàng T; Về con chung: Giao  con chung tên là Lê Bạch TN, sinh ngày 06/9/2016 cho chị Bạch Thị ML trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lê Hoàng T do chị Bạch Thị ML không yêu cầu; Về tài sản chung và các khoản nợ: Các đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Bạch Thị ML yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn và giải quyết việc nuôi con chung với anh Lê Hoàng T có địa chỉ cư trú tại xã NT, huyện ND, tỉnh Nghệ An. Đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn theo theo quy định khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Lê Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Bạch Thị ML và anh Lê Hoàng T có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình và có đăng ký kết hôn ngày 17 tháng 02 năm 2016 tại UBND xã NT, huyện ND, tỉnh Nghệ An, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu nhau, không thông cảm cho nhau, chung sống không hạnh phúc. Chị Bạch Thị ML đã đưa con về bên ngoại sống, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2016 đến nay. Chị Bạch Thị ML yêu cầu ly hôn, anh Lê Hoàng T có nguyện vọng vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy việc đoàn tụ vợ chồng phải là nguyện vọng từ hai phía.Trong thời gian sống ly thân cũng như quá trình hòa giải tại Tòa án, chị L và anh T cũng không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng, khắc phục mâu thuẫn. Vợ chồng không sống chung với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc nhau là vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu của chị Bạch Thị ML được ly hôn với anh Lê Hoàng T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Lê Bạch TN, sinh ngày 06/9/2016. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, con chung được chị Bạch Thị ML trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Vợ chồng ly hôn, chị Bạch Thị ML và anh Lê Hoàng T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung đến khi con trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng con chung. Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung của chị L và anh T là chính đáng. Nhưng hiện nay, cháu Lê Bạch TN đang còn nhỏ, dưới 03 tuổi rất cần sự chăm sóc của người mẹ, chị L yêu cầu trực tiếp nuôi con là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử giao con chung cho chị Bạch Thị ML chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi con chung trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bạch Thị ML không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lê Hoàng T.

Về tài sản chung và các khoản nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn chị Bạch Thị ML phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bạch Thị ML và anh Lê Hoàng T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Bạch TN, sinh ngày 06 tháng 9 năm 2016 cho chị Bạch Thị ML trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi con trưởng thành, đủ 18 tuổi. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lê Hoàng T do chị Bạch Thị ML không yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bạch Thị ML phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003631 ngày 20 tháng 11 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chị Bạch Thị ML đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 23/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về