Bản án 02/2019/HNGĐ-PT ngày 06/03/2019 về tranh chấp nuôi con sau ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-PT NGÀY 06/03/2019 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 06 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 04/2019/TLPT-HNGĐ, ngày 29/01/2019 về Tranh chấp nuôi con sau ly hôn.

Do bản án hôn nhân gia đình số 304/2018/HNGĐ-ST, ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐPT-HNGĐ, ngày 30/01/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1994;

Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Hà Giang; có mặt.

- Bị đơn: Anh Dương Công O, sinh năm 1989;

Địa chỉ: Thôn 9, xã K, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; có mặt.

Bị đơn anh Dương Công O kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, và trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q: Chị Q và anh Dương Công O trước kia là vợ chồng. Do mâu thuẫn nên đã ly hôn từ ngày 06/7/2018 theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 196/2018/QĐST-HNGĐ. Trong Quyết định, phần con chung giao cho anh O trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015. Vì muốn thoát khỏi cảnh bị đánh đập và để cho giải quyết ly hôn nhanh, nên chị đồng ý để cho anh O nuôi con, mặc dù cháu chưa đủ 36 tháng tuổi.

Khoảng hơn 01 tháng sau khi ly hôn, ngày 08/8/2018 chị về thăm con và muốn mang đồ ăn cho con nhưng anh O và gia đình anh O giật đồ vứt đi và đánh, ngăn cấm chị thăm con. Chị đến thăm con ở trường học và gửi qùa cho con thì cô giáo nói là ông bà Nội cháu nói với cô là không nhận quà hộ khi mẹ cháu gửi. Anh O công việc thường đi làm xa, không trực tiếp nuôi con mà để ông, bà nội nuôi chăm sóc là chính. Chị đề nghị chị được trực tiếp nuôi cháu M vì cháu còn bé, chị đã có công việc, thu nhập ổn định, chị không yêu cầu anh O cấp dưỡng nuôi con và xin nộp tiền án phí.

Bị đơn anh Dương Công O trình bày: Về quan hệ hôn nhân trước kia như chị Q trình bày là đúng. Anh và chị Q đã ly hôn. Khi ly hôn anh chị đã thỏa thuận anh là người trực tiếp nuôi con. Chị Q mỗi lần về thăm con xong thì thường nói xấu gia đình anh trên mạng xã hội. Ngày 08/8/2018 anh đi làm về thấy chị Q đang ở nhà anh. Anh nói với chị Q đừng suốt ngày lên mạng chửi bới gia đình anh thì chị Q nói láo, chửi anh và bố mẹ anh. Anh mời chị Q ra khỏi nhà anh, nhưng chị Q không ra nên anh lôi chị Q ra thì chị Q bị ngã.

Tòa án nhân dân huyện Y đã xác minh với Công an huyện phụ trách xã K, Công an xã, Công an viên của thôn, Trường Mầm non xã K, xác minh với người hàng xóm nhà anh O.

Tại biên bản xác minh với Công an xã K và Công an huyện phụ trách xã K thì xác định: Có sự việc xô sát, cái vã ở gia đình anh Dương Công O giữa chị Q và gia đình anh O vào ngày 08/8/2018. Công an xã cử ông Phó Trưởng Công an xã cùng với thôn lập biên bản. Công an xã đã bàn giao cho Công an huyện quản lý biên bản. Nhưng do sau đó chị Q không có đơn đề nghị giải quyết vụ việc nên Công an phụ trách địa bàn không lưu giữ.

Qua xác minh, lấy lời khai với những người làm chứng trong thôn 9 thì xác đinh có sự cãi vã, xô sát giữa chị Q và anh O, chị Q chửi, còn anh O kéo tay chị Q ra khỏi nhà, chị Q bị vấp giầy vào ngưỡng cửa và ngã. Đồ ăn là sữa, bánh chị Q mang theo rơi ra nền quán nhà anh O.

Xác minh với giáo viên Trường Mầm non xã K nơi học của cháu Dương Nhật M. Bà Trần Thị Hlà giáo viên cho biết: Cháu M bắt đầu theo học tại Trường từ tháng 9 năm 2018. Thường ngày ông, bà Nội cháu đưa đón cháu đi học là chính, thi thoảng bố cháu mới đưa, đón cháu. Ông bà nội cháu trao đổi với cô giáo là nếu chị Q gửi qua thì không nhận.

Vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang thụ lý, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải nhưng không thành và đã đưa ra xét xử. Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 304/2018/HNGĐ-ST, ngày 08 tháng 11 năm 2018. Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 228, 235, 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; áp dụng các Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Q về thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn.

Giao cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015 cho chị Nguyễn Thị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Dương Công O không phải cấp dưỡng và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Quyết định này thay thế phần quyết định về giao trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung của Quyết định số 196/2018/QĐST-HNGĐ ngày 06/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

Án phí: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Q nhận chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm không có giá ngạch. Trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm chị Q đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004770 ngày 30/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y.

Ngày 06/12/2018 Tòa án nhận được đơn kháng của bị đơn anh Dương Công O kháng cáo toàn bộ Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 304/2018/HNGĐ-ST, ngày 08 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Lý do của việc kháng cáo: Bản án sơ thẩm không đúng với thực tế, chị Q không có công ăn việc làm ổn định, gia đình chị Q thuộc diện hộ nghèo, có anh trai tiền sử bị bệnh thần kinh. Chị Q thường không có mặt tại nhà, thường xuyên tụ tập uống rượu với bạn bè, không quan tâm tới con và gia đình. Khi chị Q đến thăm con gia đình không ngăn cản hay cấm đoán gì, khi còn chung sống với tôi chị Q thường xuyên có quan hệ trai gái ngoài hôn nhân với người đàn ông khác, nhiều lần tôi bỏ qua cho chị, nhưng chị Q không thay đổi mà vẫn thường xuyên bỏ nhà đi đến mấy tháng để con trai Dương Nhật M lại cho tôi chăm sóc, mà không quan tâm tới con. Khi còn chung sống tôi không đánh đập gì chị Q, việc chị Q nói là bị tôi đánh đập nên mới ly hôn là sai. Khi chị Q xin ly hôn thì chị Q đang có quan hệ ngoài hôn nhân với người khác, nên chị Q để con trai lại cho tôi nuôi. Hiện tại cháu đang ở với tôi rất tốt, cháu đang quen bạn học và cô giáo, môi trường sống cho cháu phát triển tốt.

Vậy tôi làm đơn này yêu cầu Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm giải quyết những việc sau đây: Hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm đã tuyên, giao cháu Dương Nhật M cho tôi nuôi dưỡng để cháu có điều kiện phát triển tốt.

Tại phiên tòa anh O giữ nguyên nội dung kháng cáo, anh xác định đủ điều kiện nuôi con, hiện nay con ăn học, phát triển tốt, ngày 8/8/2018 chị Q đến thăm con gia đình anh không ngăn cản hay cấm đoán gì, chỉ có sự cãi vã, xô sát giữa chị Q và anh, chị Q chửi, còn anh kéo tay chị Q ra khỏi nhà, chị Q bị vấp giầy vào ngưỡng cửa và ngã, đến 02 hôm sau thì chị Q làm đơn xin thay đổi nuôi con chung; về phía chị Q hiện nay ở chung với bố mẹ gồm 05 người, bố và anh trai chị Q nghiện rượu, thuộc hộ nghèo, hơn nữa chị Q làm bán bia thuê ở thành phố Hà Giang, nên không có khả năng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị Q khai chị làm văn thư tại Công ty TNHH MTV HA ở huyện V, đến 17 giờ chị mới lên thành phố Hà Giang cách 20km để làm thêm bán bia, đến đêm về nhà, nhà bố mẹ chị thuộc hộ nghèo năm 2018 nhưng đã thoát nghèo, nếu chị nuôi con chị sẽ thu sếp thời gian hợp lý để chăm sóc con; chị xác định anh O vẫn chăm sóc, nuôi con ăn học bình thường, nhưng do anh O và gia đình ngăn cản chị đến thăm con, nên chị mới khởi kiện yêu cầu thay đổi nuôi con chung.

Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của anh Dương Công O hợp lệ, trong hạn luật định.

Về nội dung: Tại cấp phúc thẩm anh Dương Công O cung cấp được tình tiết mới Hợp đồng góp vốn kinh doanh lĩnh vực chụp ảnh, quay video, cho thuê quần áo cưới hợp tác kinh doanh cùng ông Dương Ngọc A; Danh sách hộ nghèo, cận nghèo năm 2018 của UBND xã N, huyện V, tỉnh Hà Giang trong đó có hộ ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1959 (bố chị Q); tại phiên tòa chị Q thừa nhận gia đình chị thuộc hộ nghèo, chị Q xác định anh O vẫn chăm sóc, nuôi con ăn học bình thường, nhưng do anh O và gia đình ngăn cản chị đến thăm con, nên chị mới khởi kiện yêu cầu thay đổi nuôi con chung. Như vậy anh O có điều kiện nuôi con tốt hơn chị Q, việc thay đổi nuôi con chung của chị Q xuất phát từ việc bố mẹ anh O không nhận quà của chị Q cho con, hiện nay cháu Dương Nhật M đã trên 36 tháng tuổi, cháu học tại Trường Mầm non xã K, anh O có chăm lo việc học tập, giáo dục của cháu được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, để đảm bảo sự phát triển của cháu M cần tiếp tục giao cháu cho anh O tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu M là phù hợp pháp luật; vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 313, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận kháng cáo của anh Dương Công O. Sửa bản án sơ thẩm số: 304/2018/HNGĐ-ST, ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang như sau: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Q về thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn.

Giao cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015 cho anh Dương Công O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Nguyễn Thị Q không phải cấp dưỡng và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp pháp luật. Anh Dương Công O không phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Dương Công O: Anh O kháng cáo không nhất trí với phần quyết định về giao nuôi con chung của Tòa án nhân dân huyện Y, anh O đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết cho anh được trực tiếp là người nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015.

Hội đồng xét xử thấy rằng chị Nguyễn Thị Q và anh Dương Công O kết hôn năm 2014, có một con chung là cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015, đến năm 2018 ly hôn, tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 196/2018/QĐST-HNGĐ ngày 06/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang giao cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015 cho anh O trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, sau khi ly hôn anh O và cháu M cư trú tại thôn 9, xã K, huyện Y, ở cùng với bố mẹ anh O. Chị Nguyễn Thị Q cho rằng anh O và gia đình ngăn cản việc chị đến thăm con và có đơn khởi kiện, đề nghị thay đổi người nuôi con chung sau ly hôn. Sự việc ngày 08/8/2018, không có căn cứ để xác định anh O đánh chị Q nhưng có sự sô xát, cãi vã, và anh O kéo chị Q, không cho chị Q vào trong nhà anh O.

Tại cấp sơ thẩm cháu Dương Nhật M chưa đủ 36 tháng tuổi, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Q. Giao cháu Dương Nhật M cho chị Nguyễn Thị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Dương Công O không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp pháp luật. Tại cấp phúc thẩm anh Dương Công O cung cấp được tình tiết mới Hợp đồng góp vốn kinh doanh lĩnh vực chụp ảnh, quay video, cho thuê quần áo cưới hợp tác kinh doanh cùng ông Dương Ngọc A; Danh sách hộ nghèo, cận nghèo năm 2018 của UBND xã N, huyện V, tỉnh Hà Giang trong đó có hộ ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1959 (bố chị Q); tại phiên tòa chị Q thừa nhận gia đình chị thuộc hộ nghèo, chị Q xác định anh O vẫn chăm sóc, nuôi con ăn học bình thường, nhưng do anh O và gia đình ngăn cản chị đến thăm con, nên chị mới khởi kiện yêu cầu thay đổi người nuôi con chung. Xét thấy anh O có điều kiện nuôi con tốt hơn chị Q, việc thay đổi người nuôi con chung của chị Q xuất phát từ việc bố mẹ anh O không nhận quà của chị Q cho con, hiện nay cháu Dương Nhật M đã trên 36 tháng tuổi, cháu học tại Trường Mầm non xã K, anh O có chăm lo việc học tập, giáo dục của cháu được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, để đảm bảo sự phát triển của cháu M cần giao cháu cho anh O nuôi dưỡng, giáo dục cháu M là phù hợp pháp luật; do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Dương Công O, sửa bản án sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Q về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; giao cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015 cho anh Dương Công O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Nguyễn Thị Q không phải cấp dưỡng và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp pháp luật.

[2] Do Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, nên anh O không phải chịu án phí phúc thẩm, trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp cho anh O.

[3] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 313, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận kháng cáo của anh Dương Công O. Sửa bản án sơ thẩm số: 304/2018/HNGĐ-ST, ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang như sau: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Q về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Giao cháu Dương Nhật M, sinh ngày 13/12/2015 cho anh Dương Công O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Nguyễn Thị Q không phải cấp dưỡng và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

2. Về án phí phúc thẩm: Anh Dương Công O không phải chịu án phí Hôn nhân & gia đình phúc thẩm; hoàn trả lại cho anh O 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0001368 ngày 28/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (ngày 06/3/2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

411
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-PT ngày 06/03/2019 về tranh chấp nuôi con sau ly hôn

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về