Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 04/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 04 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 406/2018/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2019/QĐST-DS ngày 13/02/2019 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1988

Hộ khẩu: 44/70A ấp A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh

Địa chỉ liên hệ: Số 2/2 Đường D, phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng Bảo T, sinh năm 1989

Địa chỉ: 1.4 Lô C, chung cư G, đường H, phường I, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bà L có đơn xin vắng mặt; ông T vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc Loan trình bày: Bà và ông Nguyễn Hoàng Bảo T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường K, Quận C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 63, quyển số 01/2009 ngày 10/11/2009.

Trong cuộc sống chung phát sinh mâu thuẫn do ông T không cố gắng làm ăn lo cho gia đình. Mâu thuẫn xảy ra thường xuyên, không giải quyết được nên bà và ông T đã sống ly thân từ năm 2015, không còn liên lạc qua lại. Nay nhận thấy mâu thuẫn quá trầm trọng, không thể giải quyết được, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Bảo T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà và ông T có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Quốc M, sinh ngày 02/6/2009. Bà L đồng ý để cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng con chung vì bà phải đi làm ăn xa.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng Bảo T vắng mặt trong quá trình Tòa án nhân dân Quận 2 tiến hành tố tụng nên Tòa án không thu thập được lời trình bày của ông T.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 2 phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Ngưi tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Bà Nguyễn Thị Ngọc L yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Bảo T; bị đơn ông T có nơi cư trú tại Quận 2 nên căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 2.

Về thủ tục tố tụng:

Trong quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Hoàng Bảo T đều vắng mặt không có lý do.

Tòa án nhân dân Quận 2 đã thực hiện thủ tục tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, bao gồm:

- Lần 1: Vào ngày 18/9/2018, tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án số 406/TB-TLVA ngày 15/8/2018; Giấy triệu tập đương sự ngày 17/9/2018 triệu tập ông Nguyễn Hoàng Bảo T đến Tòa án nhân dân Quận 2 vào lúc 09 giờ 00 phút ngày 21/9/2018 để cung cấp lời khai và tài liệu chứng cứ nhưng ông T vắng mặt không có lý do;

- Lần 2: Vào ngày 08/10/2018, niêm yết Thông báo về việc thụ lý vụ án số 406/TB-TLVA ngày 15/8/2018; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 238/TB-TA ngày 03/10/2018; Giấy triệu tập đương sự ngày 03/10/2018 triệu tập ông Nguyễn Hoàng Bảo T đến Tòa án nhân dân Quận 2 vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 24/10/2018 để cung cấp lời khai và tài liệu chứng cứ; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T vắng mặt không có lý do;

- Lần 3: Vào ngày 06/11/2018, niêm yết Thông báo về việc thụ lý vụ án số 406/TB-TLVA ngày 15/8/2018; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 267/TB-TA ngày 06/11/2018; Giấy triệu tập đương sự ngày 06/11/2018 triệu tập ông Nguyễn Hoàng Bảo T đến Tòa án nhân dân Quận 2 vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 23/11/2018 để cung cấp lời khai và tài liệu chứng cứ; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T vắng mặt không có lý do;

- Lần 4: Vào ngày 25/01/2019, niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2019 và Giấy triệu tập đương sự ngày 23/01/2019 triệu tập ông Nguyễn Hoàng Bảo T đến Tòa án nhân dân Quận 2 vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 13/02/2019 để tham gia phiên tòa nhưng ông T vắng mặt không có lý do;

- Lần 5: Vào ngày 14/02/2019, niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2019/QĐST-DS ngày 13/02/2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13/02/2019 và Giấy triệu tập đương sự ngày 13/02/2019 triệu tập ông Nguyễn Hoàng Bảo T đến Tòa án nhân dân Quận 2 vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 04/3/2019 để tham gia phiên tòa nhưng ông T vắng mặt không có lý do.

Ngày 15/8/2018, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L có đơn xin vắng mặt trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, mở phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử vụ án đồng thời giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án được tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

Về yêu cầu của đương sự:

[1] Bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoàng Bảo T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường K, Quận C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 63, quyển số 01/2009 ngày 10/11/2009. Do đó, hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoàng Bảo T là hợp pháp.

Bà L cho rằng quá trình chung sống giữa bà và ông T phát sinh mâu thuẫn do ông T không chịu khó làm ăn, nhiều lần xảy ra cự cải, đánh nhau nên cuộc sống chung không hạnh phúc. Bà và ông T thực tế không còn chung sống từ năm 2015.

Tại Phiếu yêu cầu xác minh số 591/PYCXM ngày 05/10/2018, Ủy ban nhân dân phường I, Quận C cho biết chưa ghi nhận bất kỳ đơn thư nào về tranh chấp ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoàng Bảo T.

Trong quá trình Tòa án nhân dân Quận 2 tiến hành tố tụng cũng như tại phiên tòa, ông Nguyễn Hoàng Bảo T đều vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án nhân dân Quận 2 tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng nhiều lần. Điều đó cho thấy ông Nguyễn Hoàng Bảo T đã không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân với bà Nguyễn Thị Ngọc L.

Bà Nguyễn Thị Ngọc L có lời khai trình bày về quan hệ hôn nhân giữa bà và ông T là trầm trọng đồng thời có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt.

Hi đồng xét xử ghi nhận lời trình bày của bà L về mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông T không thể giải quyết được.

Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:

“Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Khi vợ hoặc chồng ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, bà Nguyễn Thị Ngọc L yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Bảo T là có căn cứ, phù hợp luật định.

[2] Về con chung: Xét ý kiến của bà L về việc giao con chung là Nguyễn Hoàng Quốc M, sinh ngày 02/6/2009 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với nguyện vọng của cháu M mong muốn được sống với cha, thể hiện tại bản tự khai ngày 17/8/2018. Vì ông T không trình bày ý kiến tại Tòa án nên về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Bà L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Do có yêu cầu ly hôn nên bà L phải chịu tiền án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 2 là phù hợp quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 220, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017;

- Luật thi hành án dân sự.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc L được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Bảo T (Giấy chứng nhận kết hôn số 63, quyển số 01/2009 ngày 10/11/2009 của Ủy ban nhân dân phường K, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh).

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Hoàng Quốc M, sinh ngày 02/6/2009 cho ông Nguyễn Hoàng Bảo T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông T không có yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trưc tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo qui định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo qui định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Nguyễn Thị Ngọc L phải chịu, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số AE/2017/0015472 ngày 15/8/2018 do Chi cục Thi hành án dân sự Quận 2 lập. Bà L đã nộp đủ án phí.

Trường hợp quyết định, bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo:

- Đương sự có mặt được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

- Đương sự vắng mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 04/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về