Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÀ BẮC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:11/2019/TLST-HN&GĐ, ngày 23 tháng 01 năm 2019, về ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXX-ST ngày 22 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Xa Thị P, sinh năm 1983, trú tại: Tiểu khu Đ, thị trấn Đb, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình; có mặt.

Bị đơn: Anh Hoàng Văn M, sinh năm 1980, trú tại: Xóm N, xã M, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn của chị Xa Thị P thì nội dung vụ án như sau: Năm 2007 chị Xa Thị P và anh Hoàng Văn M đã tự nguyện kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình. Thời gian đầu hai vợ chồng sinh sống tại xã M, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình, nhưng cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc vì lý do anh M thường xuyên bỏ nhà đi chơi bời cờ bạc, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt, hai bên gia đình đã nhiều lần hòa giải nhưng mâu thuẫn không được giải quyết mà ngày càng trầm trọng, căng thẳng hơn.

Đến năm 2012, anh M bỏ nhà đi mà không có tin tức gì, chị Xa Thị P đã đi tìm kiếm nhưng không có kết quả; chị P đã làm đơn yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và tuyên bố mất tích đối với anh M. Căn cứ theo đơn yêu cầu của chị P ngày 17/01/2017, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hòa Bình đã ra Quyết định giải quyết việc dân sự tuyên bố anh Hoàng Văn M mất tích theo đúng luật định.

Tại phiên tòa chị Xa Thị P giữ quan điểm xin ly hôn anh Hoàng Văn M.

Về con chung: Chị Xa Thị P và anh Hoàng Văn M có một con chung là Hoàng Gia M, sinh ngày 24/3/2008, chị P yêu cầu giao con cho chị chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; chị chưa yêu cầu anh Hoàng Văn M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ thực trạng hôn nhân giữa vợ chồng chị P và anh M đề nghị Hội đồng xét xử cần áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị xa Thị Phú; xử cho chị P được ly hôn anh M.

Về con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Yêu cầu được nuôi con chung của chị P là phù hợp pháp luật và nguyện vọng của cháu Hoàng Gia M, nên cần chấp nhận, cần giao con chung cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Ghi nhận sự tự nguyện của chị P là chưa yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Cần căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326 ngày 16/11/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, chị Phú phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; qua thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận và ý kiến của đương sự, của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Anh Hoàng Văn M được xác định nơi sinh sống cuối cùng tại: Xóm N, xã M, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình; Nguyên đơn chị Xa Thị P là người có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh M. Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân gia đình; như vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hòa Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khi thụ lý và quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành điều tra, lấy lời khai, thu thập chứng cứ, tống đạt và niêm yết các giấy tờ về thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa xét xử vụ án theo quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10/5/2019; bị đơn anh Hoàng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Đà Bắc tuyên bố mất tích vẫn không có mặt. Căn cứ các quy định của pháp luật, việc xét xử ly hôn vắng mặt bị đơn trong vụ án đảm bảo đúng quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2]Về quan hệ hôn nhân: Chị Xa Thị P và anh Hoàng Văn M kết hôn có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật; việc kết hôn do hai bên tự nguyện, quá trình chung sống ngay từ thời gian đầu vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân được xác định anh M thường hay chơi bời cờ bạc không quan tâm đến vợ, con. Vì mâu thuẫn vợ chồng nên anh M đã bỏ nhà đi biệt tích đã nhiều năm; tình cảm vợ chồng trên thực tế đã không còn, vợ chồng không có liên lạc hay thăm hỏi nhau; từ đó làm cho hôn nhân giữa chị P và anh M lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được,việc yêu cầu xin ly hôn của chị Phú là có căn cứ chấp nhận; áp dụng các quy định tại khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Xa Thị P được ly hôn anh Hoàng Văn M là hợp tình,hợp lý,phù hợp pháp luật.

[3]. Về con chung, cấp dưỡng nuôi con: Cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa là: Giao con chung Hoàng Gia M, sinh ngày 24/3/2008 cho chị Xa Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; chưa đề cập đến trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con của anh M.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

[5]. Về án phí: Chị Xa Thị P phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Khoản 3 Điều 228; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 56; Điều 58; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu Ly hôn, tranh chấp về nuôi con của nguyên đơn chị Xa Thị P.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Xa Thị P được ly hôn với anh Hoàng Văn M.

2. Về con chung: Giao con Hoàng Gia M, sinh ngày 24 tháng 3 năm 2008 cho chị Xa Thị Phú trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Anh Hoàng Văn M được quyền thăm nom, chăm sóc con chung; không ai được cản trở anh M thực hiện quyền này.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Xa Thị P chưa yêu cầu anh Hoàng Văn M cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Chị Xa Thị P phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị P đã nộp theo biên lai số 0001073 ngày 23/01/2019 tại Chi cục Thi hành án huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn được kháng cáo vắng mặt trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đà Bắc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về