Bản án 02/2019/HSST ngày 09/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN,  TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 02/2019/HSST NGÀY 09/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2019/TLST-HS ngày04/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2018 đối với bị  cáo: Mai Đình Đ, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1999, tại: xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Xóm 4, xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Đình P và bà Mai Thị Y; gia đình có 03 người con, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 10/8/2018 bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa khởi tố về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 BLHS.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa từ ngày 08/8/2018 đến nay trong vụ án khác; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Đặng Bá T - Sinh năm 1999; địa chỉ: Xóm 7, xã Nga T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.(vắng mặt)

* Người tham gia tố tụng khác (Người làm chứng):

1/ Mai Thanh T - Sinh năm 1992; địa chỉ: Xóm 5, xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt).

2/ Nguyễn Tuấn A - Sinh năm: 1996; địa chỉ: Xóm 4, xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

3/ Phạm Huy H - Sinh năm: 1993; địa chỉ: Xóm 5, xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (có mặt).

4/ Bùi Văn T - Sinh năm: 1982; địa chỉ: Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

5/ Phạm Văn Q- Sinh năm 1987; địa chỉ: Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

6/ Nguyễn Văn T - Sinh năm: 1990; địa chỉ: Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

7/ Bùi Văn T - Sinh năm: 1993; địa chỉ: Xóm 6, xã Nga T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

8/ Trần Văn Đ - Sinh năm 1992; địa chỉ: Xóm 6, xã Nga T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

9/ Mai Đình P - Sinh năm: 1962; địa chỉ: Xóm 4, xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (có mặt).

10/ Nguyễn Lương T - Sinh năm: 1987; địa chỉ: Xóm 4, xã Nga Y, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Khoảng 24h 00 phút, ngày 15/01/2018, Mai Đình Đ điều khiển xe máy Wawe Anpha từ xã Nga H đến cửa hàng Hiếu Lâm, thị trấn Nga Sơn. Khi đến chợ huyện Nga Sơn bất ngờ bị 02 thanh niên đi xe máy, Đ bị người ngồi sau xe máy dùng côn 03 khúc vụt vào người. Sau đó 02 thanh niên điều khiển xe chạy theo hướng Nam bờ sông Hưng Long. Nghi ngờ người đánh mình là nhân viên cửa hàng cầm đồ Phát Tài, Mai

Đình Đ điều khiển xe về cửa hàng cầm đồ Hiếu Lâm. Đ gặp và kể lại sự việc cho Phạm Huy H, Nguyễn Tuấn A (Cu tý). Đồng thời Đ hỏi Tuấn A để mượn xe máy nhãn hiệu Exiciter, BKS 36G1-291.01 đi tìm 02 thanh niên đó. Do lo Đ gặp chuyện, Hiếu điện thoại cho Mai Thanh T (Tuyên mèo) và Tuấn A đi tìm Đ. Trên đường đi tìm người đánh mình, Đ gặp nhóm thanh niên đang đứng nói chuyện tại khu vực Trạm y tế xã Nga T, gồm: Đặng Bá T, Nguyễn Văn T, Bùi Văn T và Trần Văn Đ. Đ nghi có người trong nhóm này đã đánh mình nên đã cho xe máy lao thẳng vào nhóm người trên. T, Đ lên xe chạy, còn T bỏ lại xe máy và bỏ chạy thì bị Đ đuổi theo dùng dao rựa chém nhiều nhát vào người T.

Sau khi gây thương tích cho T, Đ lo mất xe máy của T nên đã khóa cổ xe Exiciter của mình, rồi điểu khiển xe Wawe Anpha của T đi về, mục đích để gọi người đến đưa anh T đi bệnh viện cấp cứu. Khi đến khu vực đường liên xã Nga T -Nga L, Đ gặp H điều khiển xe ô tô và nói lại sự việc vừa chém T cho H nghe. Sau đó Đ đi về cửa hàng Hiếu Lâm, còn H, T, Tuấn A đưa T đi bệnh viện Nga Sơn. Khi H điều khiển xe đến đầu cầu kênh, thấy Đ nên H yêu cầu Đ cùng Tuấn A đưa T vào bệnh viện.

Đưa được T vào bệnh viện Nga Sơn, Đ để lại xe máy Wawe Anpha ở bệnh viện rồi cùng Tuấn A về cửa hàng Hiếu Lâm. Sau đó, Đ nhờ T quay lại xóm 4, xã Nga T lấy xe máy Exiciter của mình.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể anh Đặng Bá T ngày 16/01/2018 thể hiện: 01 vết thương rách da ở khuỷu tay trái kích thước 5 x3 cm, bờ sắc gọn; 01 vết thương rách da ở vùng thành ngực sau bên trái kích thước 8 x2 cm, bờ sắc gọn; 01 vết thương xước da chảy máu ở cẳng chân trái kích thước 2 x 1,5 cm, bờ sắc gọn; 01 vết thương ở mặt ngoài đầu dưới cẳng chân trái kích thước 9 x 2cm, bờ sắc gọn.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 80/2018/TTPY, ngày 13/02/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận dấu hiệu chính qua giám định đối với anh Đặng Bá T: Chấn thương, vết thương vùng khuỷu tay trái làm gãy mỏm khuỷu tay trái; hiện tại còn đau nhức vết thương, không ảnh hưởng chức năng của khớp: 10% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; Bảng 1; chương 8; mục II; 3.1). Các sẹo vết thương phần mềm vùng khuỷu tay trái , thành ngực sau bên trái, mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái, mặt trước trên cẳng chân trái; số lượng sẹo ít, kích thước từ nhỏ đến lớn: 10% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; Bảng 1; chương 9; mục I; 3). Chấn thương, vết thương vùng mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái làm gãy 1/3 dưới xương mác chân trái: 5% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; Bảng 1; chương 8; mục VII; 9.1).

Hiện tại tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể (Điều 4, Thông tư 20/2014) là 23%.

Đối với Đặng Bá T, sau khi bị Đ chém được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa từ ngày 16/01/2018 đến ngày 22/01/2018. Chi phí điều trị cho quá trình trị các vết thương của T, gồm: Tiền viện phí tại bệnh viện đa khoa Nga Sơn là 39.800đ; tiền thuốc 2.388.500đ; viện phí tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh hóa là 6.678.841đ; tiền thu xăng xe đi đa khoa tỉnh là 455.200đ. Ngoài ra T yêu cầu bị cáo bồi thường về mất ngày công thu nhập 07 ngày x200.000đ/ngày =1.400.000đ; Tiền công người chăm sóc 07 ngày x 200.000đ/ngày =1.400.000đ; Tiền xe cấp cứu và tái khám 2.000.000đ; Tiền tổn thất về sức khỏe và tinh thần một lần là 30.000.000đ.

Tổng cộng là 44.362.341đ.

Đối với chiếc xe máy Wawe Anpha, do Đ lấy đi khi chém T, sau khi đưa T vào bệnh viện cấp cứu và để ở bệnh viện Nga Sơn, đã mất. Đây là xe T mượn của Bùi Văn T để đi, có BKS 36G1-223.00. Ngày 19/12/2018,T yêu cầu Đ bồi thường giá trị xe là 6.000.000đ. Ngoài ra, khi bị Đ gây thương tích, bị hại bị mất 01 điện thoại di động Sam sung GALAXY A7 giá trị 6.000.000đ và số tiền 4.900.000đ. Tổng các khoản trên là 61.261.000đ, nhưng bị hại yêu cầu bị cáo Đ bồi thường là 55.261.000đ.

Ngày 24/12/2018, bị hại đã nhận được tiền bồi thường của gia đình bị cáo Đ là 45.000.000đ, gồm: tiền bồi thường giá trị xe máy đã mất là 14.000.000đ; tiền chi phí khám chữa bệnh và bồi thường sức khỏe là 31.000.000đ. Số tiền còn lại bị hại yêu cầu bị cáo Đ tiếp tục bồi thường (10.261.000đ)

Vật chứng của vụ án: Một con dao rựa bằng kim loại màu đen, cán gỗ, mũi bằng, dài 48cm, phần rộng nhất là 06 cm, đã cũ và rỉ ghét ở phần lưỡi dao, đã được Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Nga Sơn thu giữ.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Mai Đình Đ theo cáo trạng số 53 /CT- VKSNS- TA, ngày 30/11/2018 về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Đình Đ từ 24 đến30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt  giam thi hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 590 của Bộ luật dân sự, buộc Mai Đình Đ phải bồi thường cho anh Đặng Bá T, gồm:

- Tiền thuốc và viện phí: 9.561.000đ;

- Tiền thuê xe + tái khám: 1.365.000đ;

- Tiền mất ngày công thu nhập: 1.400.000đ;

- Tiền công người chăm sóc: 1.400.000đ;

- Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: 05 tháng lương cơ bản = 6.950.000đ;

- Tiền phục hồi sức khỏe: 10.000.000đ

- Tiền giá trị xe máy Wawe Anpha 14.000.000đ.

* Không chấp nhận các yêu cầu của bị hại về giá trị điện thoại Sam sung GALAXY A7, giá trị 6.000.000đ và số tiền mặt là 4.900.000đ.

* Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy một con dao rựa bằng kim loại màu đen, cán gỗ, mũi bằng, dài 48cm, phần rộng nhất là 06 cm, đã cũ và rỉ ghét ở phần lưỡi dao.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Tại phiên tòa, bị cáo Mai Đình Đ thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã gây thương tích cho anh Đặng Bá T. Lời khai nhận tội phù hợp lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận giám định thương tích và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

[2]. Hành vi của bị cáo Đ là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe cho anh Đặng Bá T. Bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Hành vi dùng dao rựa chém bị hại do nghi ngờ trước đó bị cáo bị thanh niên đi xe máy dùng côn 03 khúc vụt vào người. Tuy chưa xác định rõ đối tượng vụt mình, nhưng khi đi tìm và thấy nhóm người đang đứng trên đường, bị cáo đã dùng xe lao vào nhóm người, đồng thời dùng dao chém và gây thương tích cho một người trong nhóm, là thể hiện thái độ xem thường pháp luật, tính mạng, sức khỏe người khác. Bị cáo dùng dao rựa là hung khí nguy hiểm để chém anh T là thể hiện tính chất côn đồ, gây thương tích cho bị hại 23%. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhândân huyện Nga  Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy rằng: đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo không chỉ gây tổn hại sức khỏe cho bị hại, còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian dài, nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về nhân thân bị cáo đang phạm tội trong vụ án khác, đã bị Công an tỉnh Thanh Hóa khởi tố bắt tạm giam từ ngày 10/8/2018 về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; trong quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo đã tác động đến gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 45.000.000đ để khắc phục hậu quả; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

Do đó, cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Mai Đình Đ.

 [5]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh T theo quy định tại Điều 584, Điều 590 của BLDS. Cụ thể:

- Tiền viện phí bệnh viện (huyện + tỉnh): 9.106.800đ;

- Tiền thuê xe đi bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa + tái khám: 1.955.200đ;

- Tiền mất ngày công lao động 07ngày x 200.000đ/ ngày = 1.4000.000đ;

- Tiền công người chăm sóc 07ngày x 200.000đ/ ngày = 1.4000.000đ;

- Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: 10.000.000đ;

- Tiền phục hồi sức khỏe: 4.000.000đ;

Tổng cộng: 27.862.000đ (Hai bảy triệu tám trăm sáu hai nghìn đồng), nhưng bị cáo đã tự nguyện bồi thường 31.000.000đ. Do vậy chấp nhận số tiền bị cáo Mai Đình Đ đã tự nguyện bồi thường xong cho bị hại Đặng Bá T.

* Chấp nhận yêu cầu về bồi thường giá trị xe máy là 14.000.000đ, nhãn hiệuWawe Anpha BKS  36G1-223.00 giữa bị cáo Mai Đình Đ và bị hại Đặng Bá T.

* Đối với 01 điện thoại di động Sam sung GALAXY A7, giá trị 6.000.000đ, bị hại nại là của Phạm Văn Q cho vào đầu năm 2018 và số tiền 4.900.000đ là Bùi Văn T cho vào ngày 15/01/2018. Tuy nhiên, theo các lời trình bày của Bùi Văn T và Phạm Văn Q đều không thừa nhận cho bị hại T tiền hoặc điện thoại nêu trên. Vì vậy, không đủ căn cứ buộc bị cáo Đ phải có nghĩa vụ bồi thường tài sản cho bị hại có tổng giá trị là 10.900.000đ.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường cho Đặng Bá T 45.000.000đ. Số tiền bồi thường là tự nguyện giữa bị cáo và bị hại, nên Hội đồng xét xử chấp nhận bị cáo đã bồi thường xong số tiền trên cho bị hại.

[6] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một con dao rựa bằng kim loại màu đen, cán gỗ, mũi bằng, dài 48cm, phần rộng nhất là 06 cm, đã cũ và rỉ ghét ở phần lưỡi dao. [7] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Về án phí DSST, bị cáo không phải nộp tiền án phí đối với số tiền đã tự nguyện nộp về bồi thường trước khi mở phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1- khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 38 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584; Điều 590 của Bộ luật dân sự; điểm a, g khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016

* Tuyên bố: Bị cáo Mai Đình Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

* Xử phạt: Bị cáo Mai Đình Đ 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Mai Đình Đ phải bồi thường cho bị hại, tổng số tiền là 27.862.000đ (Hai bảy triệu tám trăm sáu hai nghìn đồng), nhưng bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 31.000.000đ (Ba mốt triệu đồng). Chấp nhận số tiền bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong cho bị hại.

* Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một con dao rựa bằng kim loại màu đen, cán gỗ, mũi bằng, dài 48cm, phần rộng nhất là 06 cm, đã cũ và rỉ ghét ở phần lưỡi dao. (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/12/2018 giữa Cơ quan Công an huyện Nga Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn)

* Về án phí: Buộc bị cáo Mai Đình Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìnđồng) án phí HSST.

 Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HSST ngày 09/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:02/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về