Bản án 03/2018/DS-ST ngày 25/05/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 03/2018/DS-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

Trong ngày 25 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 12 /2017/TLST- DS ngày 27 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất bị lấn chiếm” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1957. Địa chỉ: Xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn H1 (tên thường gọ i Trần Văn H2), sinh năm 1973. Đại diện theo ủy quyền bà Lê Thị L (vợ ông Trần Văn H1), s inh năm 1975. Địa chỉ: Xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Văn D (chồng bà Hoàng Thị H), sinh năm 1957. Đại diện theo ủy quyền bà Hoàng Thị H, sinh năm 1957; cùng địa chỉ: Đ ịa chỉ: Xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

+ Bà Lê Thị L (vợ ông Trần Văn H1), sinh năm 1975. Địa chỉ: xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người làm chứng:

Ông Cao Thanh T2, ông Vũ Văn D, 1ông Đỗ Xuân H4, ông Cao Đăng L, ông Cao Văn B, Cao Hoàng Đ; Đều trú tại: xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Đề vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Gia đình bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn D  và vợ chồng ông Trần Văn H1 và bà Lê Thị L là hàng xóm láng giềng có đất liền kề nhau tại xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình, trong qua trình sử dụng đất đã xảy ra tranh chấp.

Theo nguyên đơn: nguồn gốc mảnh đất gia đình ông bà đang sử dụng được mua chuyển nhượng từ ông Cao Đăng N năm 1984; đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) số H600664 UBND huyện K cấp ngày 24/9/1996 mang tên Nguyễn Văn D là chồng của bà; có quyền sử dụng 510m2  thửa đất số 20,tờ bản đồ số 38; trong đó có 130m2   là ao, 235 m2   là đất thổ cư và thổ canh là 140 m2 ; phía Nam tiếp giáp với hành lang an toàn giao thông phía bắc đường tránh quốc lộ 10 (ATGTĐB) mới được cải tạo đi qua khu vực xóm 13, xã Q. Tháng 9/2013 hộ ông H1 (tức H2) cố tình chiếm dụng   một phần hành lang ATGTĐB thuộc sở hữu nhà nước và một phần đất phía nam của mảnh vườn thổ canh gia đình bà đang sử dụng hợp pháp tiếp giáp với hành lang ATGTĐB quốc lộ 10 xây dựng nhà kiên cố trên. Cụ thể phần lấn chiếm như sau: chiều dài 9,1m; phía đông có chiều ngang 0,30m; phía tây có chiều ngang 1,25m; Tổng diện tích lấn chiếm là 7,0525m2; trị giá 10.000.000đ. Gia đình bà đã thông báo với hộ ông H1 trước khi ông khởi công làm nhà là đã chiếm sang đất nhà bà và đã ngăn cản, đồng thời báo cáo các cấp chính quyền xã, UBND huyện K nhưng không có kết quả. Quá trình giải quyết dựa vào kết quả thẩm định  tại chỗ của Tòa án huyện K ngày 26/12/2017, bà H yêu cầu gia đình ông H1 buộc phải tháo rỡ các công trình làm trên đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông bà và buộc gia đình ông H1 trả lại phần diện tích đất đã chiếm dụng là 7,76m2   thuộc quyền sử dụng đất hợp pháp của gia đình ông bà.

Phía bà H cho rằng việc gia đình ông H1 căn cứ vào bức tường xây phía sau nhà đang ở hiện nay là ranh giới giữa hai nhà và đưa ra xác nhận của những người làm chứng là không đúng. Vì năm 1994 phía sau nhà ông H1 là vẫn là một cái hủng được nhà nước đo phân giới được cắm bằng cọc tre chưa xây dựng gì mà bức tường đó do nhà ông H1 tự xây năm 2013; đối vớ i GCN QSDĐ của gia đình ông H1 có ghi đã thu hồi 180 m2   là không đúng; vì căn cứ vào trích lục bản đồ địa chính lập năm 1996 chỉnh lý năm 2016 mà ông H1 cung cấp cho Tòa án thì phần đất còn lại ngoài diện tích 180 m2   đã thu hồi thì  cọc tiêu chỉ giới đường cắm sau mảnh đất do đó đất ông H1 xây nhà là đất hành lang ATGTĐB không còn là đất của gia đình ông H1 nữa.

Bị đơn là ông Trần Văn H2 (tức H1) và  bà Lê Thị L thì xác định: nguồn gốc đất ông bà đang ở được chuyển nhượng quy2ền sử dụng đất từ bố đẻ là ông Trần Văn K, được UBND huyện K  cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AP 682176 ngày 20/10/2009 tại thửa 79 tờ bản đồ số 38 thuộc bản đồ địa chính xã Q với tổng diện tích là 283,1 m2 ; trong đó 100 m2   đất ở tại nông thôn, 183,1 m2   đất trồng cây hàng năm khác thời hạn sử dụng lâu dài. Năm 2012 nhà nước giải phóng mặt bằng cho dự áo nâng cấp, cải tạo QL10 đoạn Ninh Phúc – cầu Điền Hộ, gia đình ông bà đã được đền bù để thu hồi 180 m2 đất cho dự án; diện tích đất còn lại của gia đình ông bà là 85,1m2. Sau khi giải phóng mặt bằng gia đình ông bà xây dựng nhà kiên cố trong phần đất còn lại, chưa hết đất, chưa đến ranh giới phía Bắc của gia đình ông bà với ranh giới phía Nam của gia đình bà H là bức tường xây gạch chỉ từ năm 1994 hiện vẫn còn làm ranh giới giữa hai nhà. Nay vợ chồng bà H cho rằng gia đình ông bà làm lên đất nhà bà H là không đúng nên ông bà không chấp nhận trả đất.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có quan điểm: Về thủ tục tố tụng nguyên đơn bị đơn, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; người làm chứng chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử  áp dụng khoản 1, Điều 203 Luật đất đai; các Điều 164, 166, 169 Bộ luật dân sự 2015; Điều 147 BLTTDS 2015; điểm d, khoản 1, Điều 12, Nghị Quyết 326/2016/NQUBTVQH14; Điều 2 luật người cao tuổi; xử:

+ Bác yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H; buộc vợ chồng ông Trần Văn H2 và bà Lê Thị L  phải trả lại quyền sử dụng 7,76 m2 đất có hình thang  chiều dài  hai cạnh đáy phía Nam và Bắc  là 9,1m; phía đông có chiều ngang 0,30m; phía tây có chiều ngang 1,25m

+ Về án phí: trả lại án tạm ứng án phí 300.000đ bà Trần Thị H đã nộp.

+ Về lệ phí: bà Trần Thị H phải thanh toán số tiền 5.000.000đ lệ phí thẩm định giá tài sản cho công ty thẩm định giá khu vực 1 (AAI).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Trần Thị H  khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Trần Văn H1 (H2) và bà Lê Thị L trả lại đất b ị chiếm dụng, căn cứ khoản 9, Điều 26 BLTTDS và khoản 2, Điều 155 BLDS yêu cầu của vợ chồng ông bà thuộc thẩm quyền g iải quyết của TAND hu yện K.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H thì thấy rằng: nguồn gốc đất của ông bà đang sử dụng chuyển nhượng từ ông Cao Đăng N năm 1984; đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) số H600664 UBND huyện Văn D là chồng của bà. Theo hồ sơ địa K cấp ngày 24/9/1996 mang tên Nguyễn  3 chính do UBND xã Q và bản thân bà H cung cấp thì gia đình bà H được quyền sử dụng hợp pháp từ năm 1995 510m2   thửa đất số 20, tờ bản đồ số 38, trong đó có 130m2  là ao, 235 m2  là đất thổ cư,  thổ canh là 140 m2;  tại xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Có kích thước chiều phía Nam là hình gấp khúc, phần giáp ngõ đi chung dài 21,5m sau đó gấp khúc lùi về phía Bắc  dài 2,7m; phần phía  giáp thổ nhà bà T và thổ nhà ông H2 dài 22,7m;  chiều phía bắc là hình gấp khúc nhiều lần đoạn đầu dài 17,5 m gấp khúc lồ i về phía Nam d ài  4,6m, sau đó bẻ ngang song song với cạnh phía Nam dài 4,3m, tiếp đó gấp khúc lồi về phía Nam 2m sau đó chạy song song với cạnh phía Nam dài 17,7m; chiều phía Tây giáp đường dong xom 13 tính từ phía Nam lên phía Bắc có độ dài 19,2m gặp giao điểm mốc giớ i phía Bắc; Chiều phía Đông tính từ Nam lên Bắc dài 5,9m gặp giao điểm mốc giới phía Bắc; hình thể đất được thể hiện tại sơ đồ phác họa ngày 07/06/1994.

[3] Nguồn gốc đất của ông Trần Văn H2 và bà Lê Thị L được bố mẹ chia cho ở từ năm 1994, chính thức làm thủ tục sang nhượng và cấp GCNQDSĐ vào 20/10/2009. Theo hồ sơ địa chính do UBND xã Q và chứng cứ do ông H2 cung cấp thì gia đình ông H2 được quyền sử dụng hợp pháp từ năm 2008 d iện tích 283,1m2 đất, tại thửa số 79, tờ bản đồ số 38, tại xóm 13, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Có kích thước chiều phía Nam giáp đường đi dài 11m; chiều phía Bắc dài 8,25m; chiều phía Tây tính từ phía Nam lên phía Bắc có độ dài 11,35m; chiều phía Tây là hình gấp khúc tính từ Nam lên Bắc dài 25,5m sau đó gấp khúc chéo về phía Đông dài 0,8m gặp giao điểm mốc giới phía Bắc, chiều phía Đông dài 25,1m. Hình thể đất được thể hiện tại sơ đồ phác họa ghi trong GCNQDSĐ cấp ngày 20/10/2009. Năm 2013 gia đình nhà ông H2 bị thu hồ i 177,2 m2  làm đường tránh QL10 theo quyết định 3918/QĐ-UBND ngày 15/08/2011 của UBND huyện K; tại biên bản xác định vị trí, kích thước thửa đất còn lại do bà L đại diện gia đình ký với đoàn đo đạc  ngày 27/02/2016 thì kích thước thửa đất chiều phía Bắc dài 10,64m; chiều phía Nam dài 11,25m ; chiều phía Đông dài 8,45m;Trong đó thể hiện rõ cạnh phía Tây là hình gấp khúc quặt về phía Đông có ba đoạn kích thước đoạn đầu 6,94m, đoạn thứ hai 0,8m đoạn thứ ba 0,73m; diện tích 93,7 m2.

[4] Căn cứ vào kết quả thẩm đ ịnh tại chỗ ngày 26/12/2017 thì phần tranh chấp được xác định là hình thang có chiều phía Nam là 9,11m, chiều phía Bắc là 8,95m chiều dài phía Đông 03,m, chiều dài phía Tây là 1,25m, diện tích 6,9m2 nằm ở phía Đông Nam thổ nhà bà H và Tây Bắc nhà ông H2. Hộ gia đình bà H  đang sử dụng tổng diện tích đất là 554,2 m2, so với GCNQSDĐ của gia đình bà H được quyền sử dụng là 510 m2  thì hiện tại đang thừa 34,2 m2  đất không kể phần tranh chấp.   Kích thước chiều phía Nam phần giáp ngõ đ i chung dài 22,94m ( tăng 1,44m);  phần gấp khúc lùi về phía Bắc  dài 3,45m ( tăng 0,75m); đoạn tiếp theo dài 12,37m và  phần giáp thổ nhà ông H2 có tạo hình gấp khúc lùi về phía Bắc   dài 1,25m, phần sau thổ nhà ông H2 dài 8,95m, tổng chiều dài phía sau thổ bà T cũ và thổ ông H2  21,32m ( giảm1,42m). Kích thước chiều phía Bắc dài 17,15 m (giảm 0,85m), phần gấp khúc lồ i về phía Nam dà4i  4,64m ( tăng 0,04m), phần  bẻ ngang song song với cạnh phía Tây dài 3,34 ( giảm 0,96m), tiếp đó gấp khúc lồi về phía Đông dài 2,76m ( tăng 0,76m), phần chạy song song với cạnh phía Nam dài 20,86m ( tăng 2,9m) . Chiều phía Tây giáp đường dong xóm 13 tính dài 18, 36m ( giảm 0,84m). Chiều phía Đông dài 5,68m ( giảm 0,22m). Tính cả kích thước phần đất tranh chấp thì tổng kích thước hiện tại ( đo ngày 26/12/2017) các cạnh của cả hai thửa chiều phía Tây và phía Nam không thay đổi chiều phía Bắc thiếu 0,7m chiều phía Đông tăng 1,8m so với số liệu gốc đo đạc ngày 27/6/1995. Hiện trạng sử dụng cạnh thổ phía Nam giáp nhà ông H2 có mấu lõm về phía Bắc ngay sau nhà bà T cũ không phải   là một đường thẳng như trong sơ đồ hình thể đất đã đăng ký ngày 07/06/1994.

[5] Đối với hộ gia đình ông H2 đo đạc ngày 26/12/2017 hiện đang sử dụng tổng diện tích đất là 98,66 m2  kể cả phần đất có tranh chấp so với đất của gia đình ông H2 xác nhận quyền sử dụng quyền sử dụng ngày 28/4/2016 là 93,7 m2 thì hiện tại đang thừa 4,96 m2  nếu không kể phần đất đang có tranh chấp thì diện tích đất thiếu 1,94 m2; so với số liệu trên GCNQSDĐ của gia đình ông còn lại sau khi thu hồi là 85,1 m2  nếu tính cả diện tích phần đất đang có tranh chấp thì d iện tích đất thừa 13,56 m2.   Kích thước cạnh đất  phía Nam dài 11,47m ( tăng 0,22m);  cạnh phía Bắc giáp nhà bà H và ông H3 11,27m ; cạnh phía Đông giáp đất nhà ông T2 dài 9,34 m (tăng 0,87m);  cạnh phía Tây  dài 7,97m là một đường thẳng không  có hình gấp khúc về phía Đông không phù hợp với sơ đồ xác nhận ngày 28/4/2016 là đường gấp khúc ba đoạn.

[6] Bà Hạnh cho rằng đối với GCN QSDĐ của gia đình ông H1 có ghi đã thu hồi 180 m2 là không đúng; vì căn cứ vào trích lục bản đồ địa chính lập năm 19 96 chỉnh lý năm 2016 mà ông H1 cung cấp cho Tòa án thì phần đất còn lại ngoài diện tích 180m2    đã thu hồi cọc tiêu chỉ giới đường cắm sau mảnh đất này là chỉ giớ i hành lang đường tránh QL10 không còn là đất của gia đình ông H1 nữa. Vấn đề này tại chính chứng cứ do bà H cung cấp là công văn số 369/UBND ngày 11/4/2017 của UBND huyện K đã trả lời bà H ngoài diện tích đất thu hồi gia đình ông H2 còn 85,1m2 đất sử dụng tại thửa 79 tờ bản đồ số 38 cũ.Vì vậy quan điểm của bà cho rằng gia đình ông H2 và bà L tại thửa 79 không còn đất sử dụng hợp pháp mà là đất lấn chiếm của nhà nước và của bà là không có căn cứ.

[7] Căn cứ và sơ đồ đăng ký quyền sử dụng đất trong GCNQSDĐ cấp năm 2009cũng như sơ đồ xác định kích thước diện tích đất còn lại của gia đình ông H2 ngày 28/4/2016 và hiện trạng đất đo đạc ngày 26/12/2017 của Tòa án chứng minh gia đình ông H2 đã sử dụng không đúng kích thước diện tích so với kích thước diện tích đất sử dụng hợp pháp còn lại  được giao sử dụng 28/4/2016 .Cụ thể chiều phía Nam góc Tây Nam trước đây là góc đa giác  với ba đoạn đo gấp khúc; thẩm định tại chỗ ngày 26/12/2017 thì gia đình ông H2 nhận mốc vượt qua bức tường ranh giới xây năm 1994  lấn sang phía nhà bà H có hình tam giác có cạnh phía Nam 0,6m và cạnh phía Tây 1,05m , đáy là 1,5m.  Như vậy có thể xác định gia đình bà H ngoài ranh giới hiện trạng đất khi thẩm định cò 5 tích đất nàygia đình ông H2 đang quản lý sử dụng bất hợp pháp. Tại phiên tòa gia đình ông H2 thừa nhận đã nhận sai mốc giới vượt quá kích thước diện tích đất được sử dụng hợp pháp  còn lại thể hiện trong GCNQSDĐ cấp năm 2009 cũng như sơ đồ xác định kích thước diện tích đất còn lại của gia đình ông H2 ngày 28/4/2016; xác định vị trí đất của gia đình mình như trong sơ đồ đất xác định trong GCNQSDĐ cấp năm 2009 cũng như sơ đồ xác định kích thước diện tích đ ất còn lại của gia đình ông H2 ngày 28/4/2016.

[8] Phía gia đình bà H còn cho rằng căn cứ vào bản đồ  năm 1996 khi cấp giấy chứng nhận cho gia đình bà và bố của ông H2 thì ranh giới giữa hai nhà là đường thẳng so với thực tế thẩm định của Tòa án ngày 26/12/2017  thì có gấp khúc lấn vào đất nhà bà chứng minh ông H2  đã lấn đất của gia đình bà còn việc gia đình ông H2 căn cứ vào bức tường xây phía sau nhà đang ở hiện nay là ranh giới giữa hai nhà và đưa ra xác nhận của những người làm chứng là không đúng; vì năm 1994 phía sau nhà ông H2 là vẫn là một cái hủng được nhà nước đo phân giới được cắm bằng cọc tre chưa xây dựng gì mà bức tường đó do nhà ông H1 tự xây năm 2013; phần ranh giới giữa gia đình bà và gia đình ông H2 nay là hình gấp khúc xâm lấn về phía đất nhà bà là cơ sở chứng minh cho việc gia đình  ông H2 đã lấn chiếm đất của gia đình bà. Tuy nhiên người làm chứng là bà Trần Thị T xác định phía ngoài  bức tường còn tồn tại trên đất còn phần đất là rãnh thoát nước chiều rộng khoảng 1,2m thuộc sở hữu của gia đình bà, khi nhà nước thu hồi phần còn lại là rãnh nước thoát nước để sử dụng chung. Những người làm chứng khác là các ông Cao Thanh T, ông Vũ Văn D, ông Đỗ Xuân H4, ông Cao Đăng L, ông Cao Văn B, Cao Hoàng Đ  đều xác định năm 1994 gia đình ông H1 đã xây bức tường ngăn cách làm ranh giới với gia đình bà H và thực tế thẩm định tại chỗ của Tòa án ngày 26/12/2017 xác định phía sau căn nhà gia đình ông H1 xây năm 2013 còn có 01 bức tường xây gạch đơn còn tồn tại là ranh giới sử dụng đất giữa hai nhà ( nhà bà H sử dụng đất từ ngoài bức tường về phía bắc, nhà ông H1 sử dụng đất từ trong bức tường tường về phía Nam). Tại b iên bản xác minh ngày 05/01/2018  UBND xã Q xác định bức tường đó có trước khi làm thủ tục cấp GCN QSDĐ cho ông H1 năm 2009. Ngoài trình bày quan đ iểm   lập luận trên nhưng bà H không đưa ra được chứng cứ nào khác chứng minh cho quan điểm của mình. Căn cứ vào GCNQSDĐ cấp năm 1994  và sơ đồ đăng ký quyền sử dụng đất ngày 07/06/1994 của gia đình bà H cũng như hiện trạng đất đo đạc ngày 26/12/2017 của Tòa án thì  gia đình bà H tuy kích thước có thay đổi nhưng diện tích không thiếu mà còn tăng  so với diện tích được giao sử dụng  năm 1994 và cũng không chứng minh được vì sao kích thước đất gia đình mình thay đổi tại những vị trí không có tranh chấp với các hộ khác và diện tích thực tế sử dụng tăng lên so với GCNQSDĐ được cấp; cũng không chứng minh được khi gia đình ông H1 xây dựng bức tường phía Bắc làm ranh giới gia đình bà H đã phản đối và người làm chứng đã xác nhận sai sự thật.  Như vậy có đủ căn cứ xác định ranh giới phía Nam của gia đình bà H và phía Bắc gia đình ông H1 được xác định là bức tường được gia 6 trên thực tế và không có căn cứ gia đình ông H1 lấn chiếm, chiếm dụng phần đất 6,9m2 có hình thang, chiều phía Nam là 9,11m, chiều phía Bắc là 8,95m chiều dài phía Đông 03,m, chiều dài phía Tây là 1,25m của gia đình bà H. Vì vậy việc gia đình bà H khởi kiện buộc gia đình ông H1 đòi lại đất lấn chiếm, căn cứ Điều 166; 170 luật đất đai năm 2013 và Đ iều 175 BLDS 2017 là không có căn cứ, không được chấp nhận.

[9] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá quyền sử dụng đất tranh chấp; chi phí cho việc thẩm định và đo đạc, định giá là 5.000.000đ do công ty thẩm định giá khu vực 1 (AAI) thực hiện; bà H  đã nộp trước chi phí này . Yêu cầu của bà H  không được được chấp nhận do đó theo quy định tại  khoản 1, Điều 157 và khoản 1, Điều 165 BLTTDS phải chịu trách nhiệm thanh  toán số tiền chi phí thẩm định định giá cho bà H.

[10] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của bà H không được chấp nhận nhưng theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và Đ iều 2, Luật người cao tuổi,  bà H không phải nộp án phí mà được trả lại tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 100, 106, 166; 170; 202 và khoản 1 Đ iều 203 Luật đất đai năm 2013; Đ iều 164, 165, 175  Bộ luật dân sự 2015;  Điều 147,  228 Bộ luật tố tụng dân sự;  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Điều 2 Luật người cao tuổi.

1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị H đòi quyền sử dụng đất bị lấn chiếm đối với vợ chồng ông Trần Văn H1 (H2) và bà Lê Thị L.

- Giữ nguyên hiện trạng đất đang s ử dụng của các gia đình hiện nay (có sơ đồ chi tiết kèm theo).

- Yêu cầu gia đình bà Hoàng Thị H cùng với gia đình ông Trần Văn H1 (H2) căn cứ quyết định của bản án này đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục điều chỉnh về thông tin thửa đất của gia đình mình đang sử dụng.

2.Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị H được trả lại số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số AA 2735  ngày  26/ 10 /2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Ninh Bình.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.        

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/DS-ST ngày 25/05/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:03/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về