Bản án 03/2018/HNGĐ-PT ngày 09/08/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 03/2018/HNGĐ-PT NGÀY 09/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Ngày 09 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 03/2018/TLPT-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn”; “Tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con”;

Do Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2018/QĐ-PT ngày 30 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Vạn Quan Vinh Đ - sinh năm 1979 (có mặt).

- Bị đơn: Bà Hứa Thị T – sinh năm 1980 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn L, xã N, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Hứa Thị T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Vạn Quan Vinh Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Hứa Thị T tự nguyện tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện N theo Giấy chứng nhận kết hôn số 52, quyển số 01/2005 ngày 07/6/2005.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến hết năm 2011, đầu năm 2012 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do quan điểm và tính tình không hợp nhau, kinh tế gia đình khó khăn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, nên đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau, mạnh ai nấy sống từ năm 2015 đến nay.

Nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Hứa Thị T.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Vạn Quang V - sinh ngày 07/12/2005 và Vạn Triệu H - sinh ngày 10/02/2009. Nếu ly hôn, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu V; giao cháu H cho bà T nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Hứa Thị T trình bày:

- Bà xác nhận nội dung trình bày của ông Vạn Quan Vinh Đ về quan hệ hôn nhân là đúng sự thật. Do vợ chồng đã sống riêng, tình cảm vợ chồng không còn từ năm 2015 đến nay, nên bà đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của ông Đ.

- Vợ chồng có 02 con chung tên Vạn Quang V - sinh ngày 07/12/2005, Vạn Triệu H - sinh ngày 10/02/2009. Hiện nay bà làm công nhân may, lương mỗi tháng trung bình 4.000.000 đồng. Nếu được ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung; Bà yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, 55, 57, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

- Tuyên xử:

1/.Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Vạn Quan Vinh Đ và bà Hứa Thị T.

2/. Về con chung:

Giao cháu Vạn Quang V - sinh ngày 07/12/2005 cho ông Vạn Quan Vinh Đ chăm sóc, nuôi dưỡng;

Giao cháu Vạn Triệu H - sinh ngày 10/02/2009 cho bà Hứa Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền, nghĩa vụ của các bên sau khi ly hôn, án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Ngày 30 tháng 5 năm 2018, Bị đơn bà Hứa Thị T kháng cáo Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Nội dung kháng cáo: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết giao cháu Vạn Quang V cho bà trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu; Yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Hứa Thị T tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo của bà; Giao con chung cháu Vạn Quang V cho bà nuôi dưỡng; Buộc ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu V, cháu H mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự túc được;

Ông Vạn Quan Vinh Đ tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo bà Hứa Thị T; Giữ nguyên Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà, Thư ký Toà án và các Thẩm phán tham gia phiên toà đã chấp hành đúng các quy định về thụ lý xét xử phúc thẩm, chuẩn bị xét xử phúc thẩm, triệu tập những người tham gia xét xử phúc thẩm theo quy định tại các Điều 285, 286, 294 Bộ luật tố tụng dân sự;

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi Toà án cấp phúc thẩm thụ lý cho vụ án cho đến thời điểm xét xử tại phiên toà hôm nay đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73, 86, 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của Bị đơn bà Hứa Thị T; Sửa Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận; Giao cháu Vạn Quang V cho bà Hứa Thị T trực tiếp nuôi dưỡng; Buộc ông Vạn Quan Vinh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu Vạn Quang V, cháu Vạn Triệu H mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự túc được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn, Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có mặt tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 294 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn ông Vạn Quan Vinh Đ không rút đơn khởi kiện; Người kháng cáo bà Hứa Thị T không thay đổi, bổ sung, không rút một phần hoặc toàn bộ nội dung yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Qua các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung trình bày và kết quả tranh luận của các đương sự cho thấy: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”, “Tranh chấp nuôi con chung” và “Tranh chấp cấp dưỡng nuôi con” được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình là có cơ sở và đúng pháp luật.

[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo thứ nhất của bà Hứa Thị T có nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết giao cháu Vạn Quang V cho bà trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

- Tại Bản tự khai ngày 25/12/2017 (BL 29) cháu Vạn Quang V khai: Trong cuộc sống hàng ngày ba mẹ có mâu thuẫn và cãi nhau. Con học lớp 7 Trường Trung học cơ sở Trần T, hiện đang ở với ba. Nếu ba mẹ con ly hôn, con xin ở với mẹ….

- Tại Bản tự khai nộp cho Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận ngày 01/8/2018 của cháu Vạn Quang V, có xác nhận của bà Hứa Thị T có nội dung: Lúc trước con ở với ba nhưng con muốn ở với mẹ. Ba không cho cho con gặp mẹ và bắt con ở với ba, rồi con lén chạy về với mẹ. Ba không cho con đi học cũng không cho sách vở để con đi học. Con năn nỉ mẹ cho con đi học, mẹ con qua trường Trần T rút hồ sơ, ba không cho nhưng mẹ con bằng mọi cách rút cho được. Nguyện vọng của con là ở với mẹ, con mong Tòa án xét xử cho con ở với mẹ.

- Ngày 01/8/2018, bà Vạn Triệu H cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận 01 Giấy khen của Trường Trung học cơ sở Trần Quốc T tặng cháu Vạn Quang V, học sinh lớp 7-2 đã đạt thành tích học sinh tiên tiến năm học 2017 – 2018.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Vạn Quan Vinh Đ trình bày: Ông làm giáo viên; Hết giờ làm việc ở trường học, ông phải đi làm thêm để có thêm thu nhập trả nợ, tối mới về nhà, cha mẹ ông chăm sóc cháu V;

Với các tài liệu chứng cứ nói trên, xét thấy: 

Cháu Vạn Quang V - sinh ngày 07/12/2005 hiện nay gần 13 tuổi; từ tháng 01/2018 đã chuyển từ Trường Trần T, xã P, huyện N về Trường Trần Quốc T, xã N, huyện N để học, đồng thời cháu V sống chung với bà Hứa Thị T ở thôn L, xã N, huyện N, tỉnh Ninh Thuận từ tháng 01/2018 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, cháu V đều yêu cầu được sống chung với mẹ. Bà T hiện đang làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn thời trang H có thu nhập ổn định, ngoài thời gian làm việc bà T còn dành thời gian chăm lo cho các con. Việc Tòa án cấp sơ thẩm giao cháu Vạn Quang V cho ông Vạn Quan Vinh Đ trực tiếp nuôi dưỡng là không đảm bảo cho sinh hoạt, học hành hàng ngày của cháu V. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung yêu cầu kháng cáo thứ nhất của bà Hứa Thị T; Giao cháu Vcho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo thứ hai của bà Hứa Thị T có nội dung: Yêu cầu ông Vạn Quan Vinh Đ cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu V và cháu H, mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự túc được. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

- Tại Bảng chi tiết lương tháng 12/2017, tháng 01/2018, tháng 02/2018 của Chi nhánh Công ty Trách nhiệm hữu hạn thời trang H (BL 23, 24, 25), do bà Hứa Thị T cung cấp cho Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện: Thu nhập của bà Hứa Thị T từ hơn 3.000.000 đồng/tháng đến 4.000.000 đồng/tháng.

- Tại Bản tự khai ngày 14/12/2017 (BL 34) ông Vạn Quan Vinh Đ trình bày:

…Tôi làm nghề giáo viên, lương 6.000.000 đồng/tháng.

- Tại Danh sách Cán bộ công nhân viên thanh toán lương qua tài khoản tháng 01/2018 của Trường Trung học cơ sở Trần T do ông Đ cung cấp cho Tòa án sơ thẩm (BL 26, 27) thể hiện:

Tổng cộng lương và phụ cấp của ông Đ là 6.456.819 đồng/tháng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ trình bày: Lương của ông hiện nay là 6.800.000 đồng một tháng, ngoài ra ông còn đi làm thêm để kiếm thêm thu nhập.

Xét thấy: Tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Căn cứ điều kiện và mức thu nhập thực tế của ông Đ, việc bà T yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu V và cháu H, mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng là phù hợp pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung yêu cầu kháng cáo thứ hai của bà Hứa Thị T; Buộc ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu V và cháu H, mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng; thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 9/2018 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự túc được.

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo của Bị đơn bà Hứa Thị T; Chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Sửa Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện N.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Vạn Quan Vinh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hứa Thị T không phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

Từ những căn cứ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Tuyên xử: Chấp nhận nội dung yêu cầu kháng cáo của Bị đơn bà Hứa Thị T. Sửa Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 11/2018/HNGĐ-ST ngày 15/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, 147, 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Các Điều 55, 57, 81, 82, 83, 115 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Vạn Quan Vinh Đ và bà Hứa Thị T.

+ Về giao nuôi con chung: Giao cháu Vạn Quang V - sinh ngày 07/12/2005, cháu Vạn Triệu H - sinh ngày 10/02/2009 cho bà Hứa Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

+ Về cấp dưỡng nuôi con chung:

Ông Vạn Quan Vinh Đ phải cấp dưỡng nuôi cháu Vạn Quang V - sinh ngày 07/12/2005 mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 9/2018 cho đến khi cháu Vạn Quang V đủ 18 tuổi lao động tự túc được.

Ông Vạn Quan Vinh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Vạn Triệu H - sinh ngày 10/02/2009 mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 9/2018 cho đến khi cháu Vạn Triệu H đủ 18 tuổi lao động tự túc được.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con chung lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Vạn Quan Vinh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn), nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0013368, ngày 30/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

+ Ông Vạn Quan Vinh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (về cấp dưỡng nuôi con chung).

- Về án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Hứa Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Hoàn lại cho bà Hứa Thị T 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp, theo Biên lai thu tiền số 0013537 ngày 05/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HNGĐ-PT ngày 09/08/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng nuôi con

Số hiệu:03/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về