Bản án 03/2018/HS-ST ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/HSST ngày 11/01/2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1990; Tên gọi khác: Không. Trú quán: Thôn Đ Q, xã T M, huyện L Ng, tỉnh B G.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm ruộng

Trình độ văn hóa: 9/12. Đảng, đoàn thể: Không.

Con ông: Nguyễn Văn Th, sinh năm 1954 (Đã chết) Con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1956

Vợ: Nguyễn Thị Y, sinh năm 1991

Con: có 02 con; Con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013.

Nhân thân: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 103 ngày 28/5/2015 bị Công an huyện Lục Ngạn xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

Tiền sự: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 129 ngày 17/8/2017 bị Công an huyện Lục Ngạn xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền án: Tại bản án số 11/HSST-2016 ngày 11/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn T 09 tháng tù về tội "Công nhiên chiếm đoạt tài sản". Ngày 04/8/2016 Tuyên chấp hành xong hình phạt tù, tính đến thời điểm phạm tội này T chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại nơi cư trú ( Có mặt ).

* Người bị hại:

Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1985 ( Có mặt ) Trú quán: H Tr – N D – L Ng – B G.

* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Từ Ngọc Th, sinh năm 1991 ( Vắng mặt ) Trú quán: Th D – N D – L Ng – B G.

2/ Chị Hà Thị Ch, sinh năm 1994 ( Vắng mặt ) Trú quán: Th D – N D – L Ng – B G.

* Những người làm chứng:

1/ Chị Kiều Thị Ng, sinh năm 1985 ( Vắng mặt ) Trú quán: H Tr – N D – L Ng – B G.

2/ Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1976 ( Vắng mặt ) Trú quán: H Tr – N D – L Ng – B G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 18/8/2017 Nguyễn Văn T sinh năm 1990, trú tại thôn Đ Q, xã T M, huyện L Ng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu xanh - đỏ đi từ nhà theo đường qua thôn Đ Í, xã T M ra xã M A rồi đi sang xã N D mục đích để quan sát gia đình nào có tài sản sơ hở trộm cắp mang đi bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày T điều khiển xe mô tô đi đến ngã ba khu vực Nghĩa trang xã N D thì T rẽ vào đường bê tông bên tay trái theo chiều đi để sang thôn H Tr, xã N D, khi đi được khoảng 400 mét, T thấy có một nhà phía bên tay trái đường theo chiều đi khóa cửa ngoài, đó là nhà chị Nguyễn Thị Ng sinh năm 1985. Quan sát thấy không có người ở nhà, T để xe mô tô ở ngôi nhà hoang bên cạnh rồi đi theo đường hành lang cạnh nhà xuống phía sau nhà, thấy cửa bếp khóa ngoài, cửa ngách phía sau nhà chính có hai cánh cửa bằng sắt cài bằng hai chiếc then bên trong. T dùng hai tay đẩy cửa bếp làm bản lề phía dưới cánh cửa bên trái bật bung ra, T thấy trong bếp cạnh tường chỗ bản lề bị bung ra có dựng một 01 chiếc cuốc bàn có tra cán bằng gỗ, 01 chiếc cuốc chim có tra cán bằng gỗ; 01 chiếc răng bừa bằng kim loại và 01 thanh sắt dài 67 cm có một đầu dẹt, T lấy toàn bộ số công cụ đó ra ngoài và mang lên chỗ cửa ngách cửa nhà chính. T dùng chiếc cuốc bàn cho phần lưỡi cuốc vào khe hở giữa hai cánh cửa ngách cậy phá thì bị gẫy phần cán gỗ tiếp giáp với phần lỗ tra bàn cuốc, T tiếp tục lấy chiếc cuốc chim cho phần nhọn của cuốc chim vào giữa khe hở của hai cánh cửa ngách cậy phá nhưng chiếc cuốc chim cũng bị gẫy phần cán gỗ. Lúc này T dùng chiếc răng bừa bằng sắt có một đầu nhọn và thanh sắt có một đầu dẹt đưa vào khe hở giữa hai cánh cửa ngách cậy một lúc thì có một chiếc then cửa bị gẫy ra, còn một chiếc then bị tuột rơi xuống đất. T cầm chiếc then bị gẫy vứt ra vườn, còn các công cụ khác dùng để cậy cửa T vẫn để nguyên ở hiện trường, T mở cửa đi vào trong phòng khách, quan sát thấy có một chiếc ti vi nhãn hiệu Sony Led, loại 43 inch, màu đen đặt ở trên kệ gỗ, T đi vào gian buồng ngủ cạnh phòng khách lấy chiếc vỏ chăn nhung màu đỏ có hoa lá màu đỏ, vàng, xanh, đen ở trên giường mang ra phòng khách, T chùm chiếc vỏ chăn lên chiếc ti vi rồi rút phích điện ra khỏi ti vi. Sau đó T bê ti vi được trùm bằng chiếc vỏ chăn nhung ra chỗ để xe mô tô để ti vi lên giá thồ phía trước rồi nổ máy xe đi theo đường vào thôn B H, xã N D rồi đi ra ngã tư trường tiểu học xã N D sau đó T rẽ phải đi đến quán sửa đồ điện tử của anh Từ Ngọc Th sinh năm 1991 ở Thôn Th D, xã N D, huyện L Ng bán chiếc ti vi trộm cắp được cho anh Th với giá 2.000.000 đồng, còn chiếc vỏ chăn nhung T mang ra khe hở bờ tường phía sau nhà anh Th giáp với nhà hàng xóm vứt ở đó. Số tiền bán ti vi T đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết. Còn chị Nguyễn Thị Ng - chủ nhà sau khi về nhà phát hiện bị kẻ gian cậy cửa vào nhà trộm cắp mất chiếc ti vi nên đã làm đơn trình báo Công an xã N D.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L Ng đã tiến hành khám nghiệm hiện trường. Quá trình khám nghiệm thu giữ 01 chiếc cuốc bàn đã bị gẫy rời phần cán gỗ; 01 chiếc cuốc chim bị gãy rời phần cán gỗ; 01 răng bừa bằng sắt dài 28cm, có một đầu nhọn, 01 đầu tù; 01 thanh sắt tròn dài 67cm, đường kính 02cm, một đầu dẹt kích thước 3,2cm; 01 cán cuốc bằng gỗ kích thước 01m x 4,5cm bị gãy từ cuốc chim; 01 cán cuốc bằng gỗ kích thước 1,2 m x 4,5 cm bị gãy từ chiếc cuốc bàn; 01 then chốt cài cửa bằng sắt kích thước (18 x 15) cm, trên then có hai lỗ dùng để móc khóa.

Hồi 19 giờ 30 phút ngày 18/8/2017 được biết chiếc ti vi đã mua của T là tài sản do phạm tội mà có, nên anh Từ Ngọc Th đã điện bảo vợ là chị Hà Thị Ch mang giao nộp cho cơ quan CSĐT - Công an huyện L Ng, ngoài ra chị Ch còn tìm và giao nộp chiếc vỏ chăn nhung màu đỏ hoa lá màu đỏ, vàng, xanh, đen mà T vứt ở sau nhà chị để đem giao nộp.

Ngày 23/8/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L Ng đã ra quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với tang vật đã thu giữ gồm chiếc ti vi nhãn hiệu Sony Led, loại 43 inch, màu đen; 01 chiếc vỏ chăn nhung màu đỏ có hoa lá màu đỏ, vàng, xanh, đen. Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số 205 ngày 24/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện L Ng xác định chiếc ti vi nhãn hiệu Sony Led, loại 43 inch, màu đen có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 9.272.000 đồng; 01 chiếc vỏ chăn nhung màu đỏ có hoa lá màu đỏ, vàng, xanh, đen trị giá 5.000 đồng. Tổng cộng: 9.277.000 đồng (Chín triệu hai trăm bẩy mươi bẩy nghìn đồng).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Ng trình bày phù hợp với lời trình bày tại cơ quan điều tra. Về trách nhiệm hình sự: Chị đề nghị Hội đồng xét xử xử lý bị cáo theo pháp luật; Về trách nhiệm dân sự: Chị không có yêu cầu, đề nghị gì; Về số vật chứng bị thu giữ chị có nguyện vọng xin lại 01 chiếc cuốc bàn bị gẫy phần cán gỗ bằng với lỗ tra cán, chiều dài bàn cuốc 25cm, chiều rộng 23,5cm; 01 chiếc cuốc chim chiều dài 29cm, một đầu dẹt, một đầu nhọn, phần cán gỗ bị gẫy bằng với lỗ tra cán; 01 răng bừa dài 28cm, một đầu nhọn, 01 đầu tù, bản rộng nhất 02cm; 01 thanh sắt tròn, kích thước dài 67cm, đường kính 02 cm, một đầu dẹt 3,2cm; 01 then chốt cửa bằng kim loại kích thước (18 x 1,5)cm, trên chốt có 02 lỗ để móc khóa, chị nhất trí tịch thu tiêu hủy 01 cán cuốc bằng gỗ dài 01m x 4,5cm, bị gẫy từ cuốc chim; 01 cán cuốc bằng gỗ dài 01m x 4,5cm, bị gẫy từ cuốc bàn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra đã được công bố tại phiên tòa.

Tại bản Cáo trạng số 03/KSĐT ngày 10 tháng 01 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện L Ng đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L Ng giữ quyền công tố nhà nước tại phiên toà đã luận tội bị cáo, phân tích tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm p khoản 1Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48 và Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Văn T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả lai cho chị Nguyễn Thị Ng 01 chiếc cuốc bàn bị gẫy phần cán gỗ bằng với lỗ tra cán, chiều dài bàn cuốc 25cm, chiều rộng 23,5cm; 01 chiếc cuốc chim chiều dài 29cm, một đầu dẹt, một đầu nhọn, phần cán gỗ bị gẫy bằng với lỗ tra cán; 01 răng bừa dài 28cm, một đầu nhọn, 01 đầu tù, bản rộng nhất 02cm; 01 thanh sắt tròn, kích thước dài 67cm, đường kính 02 cm, một đầu dẹt 3,2cm; 01 then chốt cửa bằng kim loại kích thước (18 x 1,5)cm, trên chốt có 02 lỗ để móc khóa. Tịch thu tiêu hủy 01 cán cuốc bằng gỗ dài 01m x 4,5cm bị gẫy từ cuốc chim; 01 cán cuốc bằng gỗ dài 1,2m x 4,5cm bị gẫy từ cuốc bàn.

Bị cáo, người bị hại không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện L Ng, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận: “Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/8/2017 Nguyễn Văn T đã có hành vi cậy phá cửa nhà chị Nguyễn Thị Ng ở thôn H Tr, xã N D, huyện L Ng trộm cắp 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Sony Led, loại 43 inch, màu đen; 01 chiếc vỏ chăn nhung màu đỏ có hoa lá màu đỏ, vàng, xanh, đen, có tổng giá trị 9.277.000 đồng. Sau khi trộm cắp được số tài sản trên T mang chiếc ti vi đi bán được 2.000.000 đồng và sử dụng tiêu sài cá nhân hết ”.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác và đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L Ng đã truy tố và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên cần được Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương. Do vậy cần áp dụng hình phạt thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã phạm tội, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, nên bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, bị cáo đã có tiền sự, tiền án, chưa được xóa án tích, lại tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. nên cần thiết phải cách lý bị cáo một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với anh Từ Ngọc Th là người đã mua chiếc ti vi do bị cáo T trộm cắp được của gia đình chị Ng, quá trình điều tra T khai nhận khi T bán chiếc ti vi trên cho anh Th, anh Th có hỏi lấy ở đâu, T trả lời lấy ở H Tr - N D. Tuy nhiên anh Th khai khi mua ti vi của T thì T nói ti vi của nhà T hỏng mang đi bán nên anh mua để lấy linh kiện, anh không biết đó là tài sản do T phạm tội mà có. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L Ng đã cho T và anh Th đối chất nhưng không có kết quả do đó không có căn cứ xử lý đối với anh Th.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Ng đã nhận lại được tài sản không có yêu cầu đề nghị gì, anh Từ Ngọc Th cũng không có yêu cầu, đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Ngày 25/12/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L Ng đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Thị Ng 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Sony Led, loại 43 inch, màu đen; 01 chiếc vỏ chăn nhung màu đỏ có hoa lá màu đỏ, vàng, xanh, đen.

Đối với chiếc then cửa của nhà chị Ng sau khi T cậy phá bị gẫy T vứt ra vườn nhà chị Ng, chị Ng xác định sau khi sự việc xảy ra chị dọn dẹp nhà cửa và khu vực xung quanh thấy chiếc then cửa bị gẫy ở vườn phía sau nhà bếp chị đã mang vứt đi, cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với 01 chiếc cuốc bàn bị gẫy phần cán gỗ bằng với lỗ tra cán, chiều dài bàn cuốc 25cm, chiều rộng 23,5cm; 01 chiếc cuốc chim chiều dài 29cm, một đầu dẹt, một đầu nhọn, phần cán gỗ bị gẫy bằng với lỗ tra cán; 01 răng bừa dài 28cm, một đầu nhọn, 01 đầu tù, bản rộng nhất 02cm; 01 thanh sắt tròn, kích thước dài 67cm, đường kính 02 cm, một đầu dẹt 3,2cm; 01 then chốt cửa bằng kim loại kích thước (18x1,5)cm, trên chốt có 02 lỗ để móc khóa, là tài sản của chị Ng, chị Nga có yêu cầu xin lại, nên cần trả lại chị Ng số tài sản trên. Đối với 01 cán cuốc bằng gỗ dài 01m x 4,5 cm bị gẫy từ cuốc chim; 01 cán cuốc bằng gỗ dài 1,2 m x 4,5cm bị gẫy từ cuốc bàn là tài sản của chị Ng, chị Ng không có yêu cầu gì, có giá trị sử dụng nhỏ, nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định cuả pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm p khoản 1 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho chị Nguyễn Thị Ng 01 chiếc cuốc bàn bị gẫy phần cán gỗ bằng với lỗ tra cán, chiều dài bàn cuốc 25cm, chiều rộng 23,5cm; 01 chiếc cuốc chim chiều dài 29cm, một đầu dẹt, một đầu nhọn, phần cán gỗ bị gẫy bằng với lỗ tra cán; 01 răng bừa dài 28cm, một đầu nhọn, 01 đầu tù, bản rộng nhất 02cm; 01 thanh sắt tròn, kích thước dài 67cm, đường kính 02 cm, một đầu dẹt 3,2cm; 01 then chốt cửa bằng kim loại kích thước (18 x 1,5)cm, trên chốt có 02 lỗ để móc khóa. Tịch thu tiêu hủy 01 cán cuốc bằng gỗ dài 01m x 4,5cm bị gẫy từ cuốc chim; 01 cán cuốc bằng gỗ dài 1,2 m x 4,5cm bị gẫy từ cuốc bàn.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người bị hại có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về