Bản án 03/2019/HSST ngày 16/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2019 tại tru sơ Toa an nhân dân quân Hông Bnag, thành phô Hai Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số : 05/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Văn L, sinh năm 1966, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Xã ĐT, huyện TL, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 06/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Viêt Nam; con ông Trần Văn D (đã chết) và bà Phạm Thị M (đã chết); có vợ la chị Nguyễn Thị H(đã chết); có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 2002; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 16-9-2018, được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21-9-2018; có mặt.

- Bị hại: Ông Đỗ Tiến N, sinh năm 1968; địa chỉ: Xã LH, huyện VB, thành phố Hải phòng; có  mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn T; vắng mặt.

2. Ông Bùi Văn Đ; vắng mặt.

3. Ông Trần Mạnh H; vắng mặt.

4. Ông Trần Xuân N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14-7-2018, Trần Văn L đi xe ôm từ TL, Hải Phòng đến gần công trường xây dựng trường Mầm non BĐ, phường SD, quận HB với mục đích chiếm đoạt tài sản. Lược ngồi ở quán nước gần cổng trường, khi thấy ông Đỗ Tiến N cùng công nhân trong công trường đi ăn cơm trưa, L đi bộ vào phòng của ông N, thấy xe mô tô Wave S Biển kiểm soát: 16N7-... dựng trong phòng, nên đã dùng chìa khóa chuẩn bị từ trước mở khóa và điều khiển xe về nhà.

Ngày 16-9-2018, Trần Văn L đến Cơ quan công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: L và ông N là công nhân làm việc tại công trường xây dựng trường Mầm non BĐ. Ngày 12-7-2018, L mượn xe mô tô trên của ông N và đánh 01 bộ chìa khóa xe khác (gồm 01 khóa cổ, 01 khóa càng) với mục đích lấy chiếc xe. Sau khi lấy được chiếc xe trên, L biết bị Công an triệu tập nên đã nhờ con trai là Trần Mạnh H trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông N vào ngày 14-9-2018.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 19-8-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự, Ủy ban nhân dân quận Hồng Bàng kết luận: Xe mô tô Wave S, màu đỏ đen, Biển kiểm soát: 16N7-..., số khung 12089Y024..., số máy C12E-1545..., chất lượng còn khoảng 60%, trị giá 12.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 70/CT-VKS-HB ngày 29-11-2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Trần Văn L về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên toà, bị cáo Trần Văn L khai nhân toàn bộ hành vi đã nêu trên khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 14-7-2018, Trần Văn L đã lợi dụng sở hở, lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô Wave S biển kiểm soát: 16N7-... của ông N.

Tại phiên tòa, người bị hại, ông Đỗ Tiến N xác nhận đã nhận lại tài sản, nên không có ý kiến gì về việc bồi thường và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Trần Văn L.

Tại phiên toa, đai diên Viên kiêm sat nhân dân quân Hông Bang giư nguyên cáo trạng, quyêt đinh truy tố bị cáo Trần Văn L về tội Trộm cắp tài sản và đề nghị Hôi đông xet xư: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xư phat bị cáo Trần Văn L từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo , thời hạn thử thách từ 24 tháng đến 36 tháng. Miễn ap dụng hình phạt bổ sung đối với Trần Văn L. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tài liệu, chứng cứ Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Vê hanh vi , quyêt đinh tô tung cua Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên trong qua trinh điêu tra, truy tô đa thưc hiên đung quy đinh của Bô luât Tô tung hình sự. Tại giai đoạn điều tra, truy tố và tai phiên toa , bị cáo và người tham gia tố tụng khác không khiêu nai vê hanh vi , quyêt đinh các cơ quan ti ến hành tố tụng , người tiền hành tố tụng như nêu trên. Do đo, các hành vi, quyêt đinh tô tung của các cơ quan tiên hanh tô tung, ngươi tiên hanh tô tung đa thưc hiên đêu hơp phap.

[3] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn L đã khai nhận việc lợi dụng sơ hở khi bị hại đi ăn trư,abị cáo đã len lut dùng chìa khóa đã chuẩn bị từ trước chiêm đoat tai san như nôi dung Cao trang đã truy tố. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bởi Biên bản ghi lời khai của bi hai, Biên ban ghi lơi khai cua người làm chứng; Kết luận định giá tài sản; phù hợp với vật chứng; phù hợp với các chưng cư va cac tai liêu khac co trong hô sơ vu a,nnên đa co đu cơ sơ kêt luân: Bị cáo Trần Văn L có hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại có giá trị 12.000.000 đồng. Như vậy, hành vi này đã đu yêu tô câu thanh tôiTrộm cắp tài sản. Vì vậy, Viên kiêm sat nhân dân quân Hông Bang truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có cơ sở.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của người khác và gây mất trật tự trị an chung. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là cần thiết.

[5] Vê tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không co tinh tiêt tăng năng trach nhiêm hinh sư.

[6] Về nhân thân và tinh tiêt giam nhe trach nhiêm hinh s:ưBị cáo đã tự nguyện trả lại xe mô tô trên cho bị hại, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tự nguyện khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiệm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngày 16-9-2018, bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú và bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Văn L, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá về áp dụng hình phạt như sau: Bị cáo L là người có nhân thân tốt, luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, tính chất, mức độ phạm tội của Lược thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình s,ựcó nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. Bởi vậy, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quân Hông Bang cho bị cáo L được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không phạt tiền đối với bị cáo theo qui định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, ông Đỗ Tiến N đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì về việc bồi thường, nên Hôi đông xet xư không xem xet vân đề bồi thường.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Trần Văn L 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã ĐT, huyện TL, thành phố Hải Phòng để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo được hưởng án treo có trách nhiệm kết hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trương hơp bi cao thay đôi nơi cư tru thi thưc hiên theo quy đinh tai khoan 1 Điêu 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã được hưởng án treo.

Căn cư vao khoản 2 Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, Qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cao, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 16/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về