Bản án 03/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: N L T(tên gọi khác: D), sinh ngày 08 tháng 01 năm 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường Đ V B, Phường A, Quận B, TP. Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Nhà không số, tổ M, khu phố N, phường D, Quận H, TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông N H N, sinh năm 1950 (chết) và bà L T K, sinh năm 1952; Chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 1996 bị Công an Quận 4 bắt đưa đi trường phổ thông công nông nghiệp học tập 24 tháng về hành vi “ Cướp giật tài sản”. Năm 1999 bị Công an Quận 4 bắt đưa đi trường giáo dưỡng – Cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi “Cướp giật tài sản”. Ngày 07/7/2003 bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 1165/HSST). Ngày 13/7/2010 bị Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 61/2010/HSST); bị bắt, tạm giam ngày 29/9/2018 “ Có mặt”.

- Bị hại: Ông N C T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Đường T, Khu phố L , Phường D, Quận H, TP. Hồ Chí Minh. “ Có mặt”

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông H V L, sinh năm 1984. Địa chỉ: B V Đ, Phường Q, Quận B, TP. Hồ Chí Minh. “ Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 25/9/2018, N L T đi bộ đến chùa Linh Bửu Tự, Phường Q, Quận B để tìm mẹ nhưng không gặp nên đi bộ ra đường T Đ để thuê xe ôm về Quận H. Khi đến trước nhà T Đ, Phường Q, Quận B, Tphát hiện có 01 xe Honda hiệu Wave màu trắng-vàng -đen, biển số 59C1-XXX.72 của anh N C T đang dựng trước nhà không người trông coi nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt. Để thực hiện ý định, T đi đến dùng chìa khóa có sẵn trong túi mở khóa xe tẩu thoát về nhà Quận H. Khi về đến nhà, T biết H V L, sinh năm 1984, địa chỉ: B V Đ, Phường Q, Quận B là người mua xe không giấy nên điện thoại cho L để bán chiếc xe trên. T không nói cho L biết nguồn gốc xe và L cũng không hỏi, xem xe xongLđồng ý mua với giá 3.000.000 đồng. Sau khi mua xe trên, L lên khu vực chợ B Đ, H M để bán cho đối tượng “H M” (không rõ lai lịch) với giá 4.000.000đồng. Sau khi phát hiện bị mất xe, anh N C T đến Công an Phường Q, Quận B trình báo.

Theo Kết luận định giá số 121/KL-HĐĐG ngày 27/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 4 kết luận: 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Wave màu trắng – vàng – đen; số khung: 5217CY157XXX; số máy: JC52E42090XX; biển số 59C1-238.XX đã qua sử dụng có giá trị là 9.900.000đồng.

Quá trình điều tra, sau khi trích xuất camera, Công an mời bị cáo T lên làm việc và bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên, đồng thời giao nộp trang phục bị cáo mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp, chìa khóa để mở khóa xe trộm được và số tiền 2.800.000đồng còn lại cho cơ quan Công an.

Về bồi thường dân sự: Ông N C T yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền 14.000.000đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe gắn máy hiệu Honda, loại Wave màu trắng – vàng – đen, biển số 59C1 – 238.XX(không thu hồi được).

- 01 chìa khóa xe có chữ Honda.

Tạm giữ của bị cáo: 01 quần lửng màu xám, 01 nón lưỡi trai màu xám có hình hoa văn, 01 áo sơ mi ngắn tay sọc ca rô trắng xanh; 01 đôi dép kẹp màu đen trên mặt dép có chữ Kito và số tiền 2.800.000đồng.

- 01 đĩa VCD có chứa đoạn video ghi lại hình ảnh của T thực hiện hành vi trộm cắp (đính kèm hồ sơ vụ án).

Tại Cáo trạng số 10/CTr-VKS ngày 04/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 đã truy tố bị cáo N L Tvề tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo N L T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng truy tố.

Bị hại N C T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị mất số tiền là 9.900.000đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông H V L vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá trình điều tra khai nhận đã mua xe của bị cáo T bán cho mình, do không biết rõ chiếc xe trên do bị cáo T trộm cắp mà có nên mới đồng ý mua và sau đó đã bán lại cho đối tượng H M (không xác định được nhân thân, lai lịch) với giá 4.000.000đồng và hiện cũng không biết H M ở đâu để thu hồi xe.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo N L Tvề tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Sau khi phân tích hành vi phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; miễn hình phạt bổ sung do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Buộc bị cáo nộp lại số tiền 2.800.000đồng do bị cáo phạm tội mà có. Về xử lý vật chứng: Lưu vào hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD có chứa đoạn video ghi lại hình ảnh củaTthực hiện hành vi trộm cắp (đính kèm hồ sơ vụ án); Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa xe có chữ Honda và trang phục của bị cáo mặc thực hiện hành vi phạm tội do bị cáo không có nhu cầu nhận lại.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan điều tra Công an Quận 4, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo N L T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của những người làm chứng, Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, cùng các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 25/9/2018 tại trước nhà đường T Đ, Phường Q, Quận B bị cáo N L T đã lén lút chiếm đoạt 01 xe Honda hiệu Wave màu trắng – vàng – đen, biển số 59C1 – 238.XX có giá trị 9.900.000 đồng của bị hại N C T. Do đó, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 đối với bị cáo N L T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ, mục đích muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo cố ý thực hiện tội phạm làm xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người bị hại; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn ở địa phương. Về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu nên cần có mức án nghiêm khắc để xử phạt tương xứng tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình có xem xét các tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo, để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Ngoài ra, do bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh có khó khăn nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với số tiền bị cáo bán xe cho H V L được 3.000.000đồng, bị cáo đã tiêu xài còn lại 2.800.000đồng. Xét, đây là tiền do bị cáo phạm tội mà và bị cáo đã nộp lại cho Cơ quan điều tra để khắc phục hậu quả nên giao trả số tiền trên cho bị hại N C T.

[4] Về bồi thường dân sự: Tại phiên tòa bị hại T yêu cầu bị cáoTbồi thường thiệt hại đối với tài sản bị mất số tiền là 9.900.000đồng. Xét thấy yêu cầu này phù hợp với kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 4 nên có cơ sở để chấp nhận. Tuy nhiên, quá trình điều tra bị cáoTđã tự nguyện nộp lại số tiền 2.800.000đồng nên giao trả số tiền này cho bị hại T và tuyên buộc bị cáo phải bồi thường thêm cho bị hại T số tiền là 7.100.000đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông H V L do không biết chiếc xe bị cáo bán là tài sản do phạm tội mà có nên đã mua và bán lại cho đối tượng H M (không rõ nhân thân lai lịch) nên không có cơ sở để xử lý hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) đĩa VCD có chứa đoạn video ghi lại hình ảnh của T thực hiện hành vi trộm cắp (đính kèm hồ sơ vụ án). Xét, đây là chứng cứ quan trọng của vụ án nên tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án;

+ 01 (một) chìa khóa xe có chữ Honda. Xét, đây là vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (một) quần lửng màu xám, 01 (một) nón lưỡi trai màu xám có hình hoa văn, 01 (một) áo sơ mi ngắn tay sọc ca rô trắng xanh, 01 (một) đôi dép kẹp màu đen trên mặt dép có chữ Kito. Xét, đây là tài sản cá nhân nhưng tại phiên tòa bị cáo T không đồng ý nhận lại nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 355.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo N L T ( D ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: N L T02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 9 năm 2018.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 (một) đĩa VCD có chứa đoạn video ghi lại hình ảnh của bị cáo T thực hiện hành vi trộm cắp (đính kèm hồ sơ vụ án).

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) chìa khóa xe có chữ Honda và 01 (một) quần lửng màu xám, 01(một) nón lưỡi trai màu xám có hình hoa văn, 01(một) áo sơ mi ngắn tay sọc ca rô trắng xanh, 01 (một) đôi dép kẹp màu đen trên mặt dép có chữ Kito.

+ Giao trả cho ông N C T số tiền 2.800.000 (Hai triệu tám trăm nghìn) đồng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số: 16/2019 đề ngày 10/01/2019 giữa Cơ quan Điều tra Công an Quận 4 và Chi cục thi hành án dân sự Quận 4; Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 29/12/2018 của Kho bạc nhà nước Quận 4).

+ Buộc bị cáo N L T bồi thường thiệt hại cho bị hại N C T số tiền 7.100.000 (Bảy triệu một trăm nghìn) đồng.

- Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.

+ Bị cáo T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng và 355.000 (Ba trăm năm mươi lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về