Bản án 03/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2019/LTST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức C (Tên gọi khác: Không có); sinh ngày 06 tháng 3 năm 1995 tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn X, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề ngiệp: Không nghề; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1970 và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1970; đều trú tại: thôn X, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ ba; chưa có vợ, con; Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 27/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Gio Linh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/3/2018. Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 03/01/2014, bị Chủ tịch UBND xã GV,  huyện G, tỉnh Quảng Trị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 06 tháng về hành vi nhiều lần sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 20/6/2017,  bị Công an xã GV, huyện G xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 13/8/2017, bị Công an huyện Gio Linh xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gio Linh từ ngày 02/11/2018 đến nay. Có mặt.

2. Đoàn H (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1988 tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn T, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề ngiệp: Không nghề; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn T, sinh năm 1963 và bà Trần Thị H, sinh năm 1967; có vợ là Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1990; có ba con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2016; đều trú tại: thôn T, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 29/10/2018, bị Công an xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gio Linh từ ngày 23/11/2018 đến nay. Có mặt.

* Bị hại:

1. Chị Bùi Thị P, sinh năm 1973; trú tại: thôn T, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1969; trú tại; thôn H, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị. Chị Nguyễn Thị H ủy quyền cho anh Lê Viết T (chồng) tham gia phiên tòa (văn bản ủy quyền ngày 05/11/2018).

3. Anh Lê Viết T, sinh năm 1970; trú tại; thôn H, xã GV, huyện G, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 28/10/2018, Nguyễn Đức C đi bộ từ nhà theo dọc đường bê tông liên thôn lên hướng GV. Khi đi ngang qua nhà chị Bùi Thị P, C thấy nhà không có ai nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. C nhảy qua tường rào đi đến cánh cửa phía sau dùng cây dao đã chuẩn bị sẵn từ trước cắt tôn, mở chốt cửa đi vào. Tiếp đó, C nhặt một viên bờ lô đập gãy song cửa gỗ luồn người vào và đi đến phòng khách bưng hai thùng Bia Lon Sài Gòn để lên cửa sổ rồi đến tủ đựng hàng tạp hóa dùng dao cắt lưới lấy 08 gói thuốc lá Jet bỏ vào túi quần. Sau đó, C bưng 02 thùng bia và đưa 08 gói thuốc Jet đến nhà anh Nguyễn Công L bán được 490.000 đồng.

Quá trình điều tra, ngoài hành vi nêu trên Nguyễn Đức C còn khai nhận: Sáng ngày 02/11/2018, Đoàn H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên nói với C “Đi binh hàng hè”, C biết H rủ đi trộm cắp tài sản nên đồng ý. H và C đi bộ dọc đường bê tông hướng TX ra đường Quốc lộ 9 kéo dài thì thấy xe mô tô BKS 74F2-1367 của anh Lê Viết T, chị Nguyễn Thị H đang dựng trước nhà không có người trông giữ nên H nói với C “Trong nhà đó có xe”, C nói lại “Đứng đó để tau vô lấy”. H đứng ở ngoài cảnh giới còn C đi vào quay đầu xe, bật chìa khóa có sẵn trên xe rồi nổ máy điều khiển xe chở H vào thành phố Đ, đến nhà của ông Nguyễn Văn Đ cầm được 400.000 đồng, C và H tiêu xài hết số tiền trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 32/KL-ĐGTS ngày 31/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện G kết luận: 02 thùng bia nhãn hiệu Sài Gòn, võ thùng làm bằng giấy, loại thùng 24 Lon có tổng giá trị còn lại tại thời điểm ngày 28/10/2018 là 450.000 đồng. 08 gói thuốc nhãn hiệu Jet, võ bằng giấy màu trắng, loại gói có 20 điếu có tổng giá trị còn lại tại thời điểm ngày 28/10/2018 là 144.000 đồng.

Tổng trị giá của các tài sản trên tại thời điểm ngày 28/10/2018 là 594.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 35/KL-ĐGTS ngày 15/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện G kết luận:

01 xe mô tô nhãn hiệu QUICKNEWWAVE, BKS 74F2-1367, đăng ký vào ngày 23/8/2001, mua cũ vào tháng 10/2017 có giá trị còn lại tại thời điểm ngày 02/11/2018 là 2.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đức C, Đoàn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Đức C, Đoàn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự  xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C từ  12 đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn H từ  06  đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/11/2018.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đã giải quyết ở giai đoạn điều tra nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng: Trong giai đoạn điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Người tham gia tố tụng:

- Trước khi xét xử, bị hại chị Nguyễn Thị H  ủy quyền cho anh Lê Viết T tham gia phiên tòa. Anh Lê Viết T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Bị hại chị Bùi Thị P cũng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

- Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử, Bà Hoàng Thị T được triệu tập đến phiên tòa với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên bà T có bản trình bày không yêu cầu bị cáo Nguyễn Đức C trả lại số tiền 490.000 đồng mà bà đã tự nguyện trả cho anh Nguyễn Công L thay cho bị cáo Nguyễn Đức C.

- Anh Nguyễn Công L đã nhận đủ 490.000 đồng và không có yêu cầu gì thêm.

- Ông Nguyễn Văn Đ nhận cầm chiếc xe mô tô hiệu QUICKNEWWAVE, BKS 74F2-1367 400.000 đồng, bị cáo Đoàn H đã chuộc lại xe, ông Đ không có yêu cầu gì thêm.

Vì vậy, Tòa án không xác định bà Hoàng Thị T, anh Nguyễn Công L, ông Nguyễn Văn Đ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

[3] Về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 28/10/2018, lợi dụng chủ nhà đi vắng, bị cáo Nguyễn Đức C đã có hành vi lén lút dùng dao cắt tôn, mở chốt cửa vào nhà chị Bùi Thị P, rồi nhặt một viên bờ lô đập gãy song cửa gỗ, đến phòng khách có chứa đồ tạp hóa, lấy 02 thùng Bia Lon Sài Gòn và 08 gói thuốc lá Jet, trị giá tài sản là 594.000 đồng. Mở rộng điều tra, bị cáo khai nhận thêm sáng ngày 02/11/2018 bị cáo cùng với Đoàn H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu QUICKNEWWAVE, BKS 74F2-1367 trị giá 2.000.000 đồng của gia đình anh Lê Viết T, chị Nguyễn Thị H. Hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Đức C ngày 28/10/2018 mặc dù giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhưng trước đó bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên hành vi đã cấu thành tội phạm, cùng với hành vi trộm cắp tài sản ngày 02/11/2018 của Nguyễn Đức C và Đoàn H với giá trị tài sản chiếm đoạt 2.000.000 đồng. Với các hành vi trên, Nguyễn Đức C và Đoàn H bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật. Điều luật quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tao không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…..

b) Đã bị kết án về tội này…chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”

Các bị cáo Nguyễn Đức C, Đoàn H nhận thức rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng mong muốn có tiền tiêu xài mà không phải bằng công sức lao động của chính bản thân mình nên đã dẫn đến hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn làm cho tình hình trật tự trị an trên địa phương mất ổn định, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho nhiều người. Các bị cáo đều có tiền án, tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo Nguyễn Đức C nhân thân còn nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Đức C có 01tiền án nên hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá 594.000 đồng đã cấu thành một lần phạm tội, cùng với hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá 2.000.000 đồng với Đoàn H nên phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm (đối với hành vi trộm cắp tài sản ngày 02/11/2018) quy định tại các điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường thiệt hại; khắc phục hậu quả; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản  2 Điều 51 BLHS. Ngoài ra Nguyễn Đức C còn được áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tự thú quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS; Đoàn H được áp dụng thêm tình tiết phạm lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[5] về xử lý vật chứng:

- Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Bùi Thị P 02 thùng bia lon Sài gòn, 08 gói thuốc là hiệu Zet, trả cho anh Lê Viết T và chị Nguyễn Thị H 01 xe mô tô nhãn hiệu QUICKNEWWAVE, BKS 74F2-1367 là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Đối với cây dao và viên bờ lô, Nguyễn Đức C khai đã vứt bỏ gần khu vực chân cầu TX và lối đi nhà chị P, cơ quan điều tra công an huyện Gio Linh đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]  Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 BLTTHS, Hội đồng xét xử ban hành Quyết định tạm giam đối với các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Riêng Nguyễn Đức C áp dụng thêm điểm r khoản 1 Điều 51, các điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS; Đoàn H áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức C và Đoàn H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Đức C 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn  chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2018.

- Bị cáo Đoàn H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn  chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/11/2018.

3. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Đức C, Đoàn H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về