Bản án 04/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2017/HSST NGÀY 26/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2017/TLST-HS, ngày 5 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2017/HSST-QĐ ngày 16/10/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Ng, sinh năm 1964.

Nơi sinh: Xã PL, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nơi cư trú: Thôn PL, xã PL, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Th (đã chết), con bà Nguyễn Thị S (đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị T và 02 con; Tiền án: 02 tiền án; Ngày 24/10/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13/01/2014, chấp hành xong tiền án phí ngày 4/5/2012; Ngày 29/10/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 7/8/2016, chấp hành xong tiền án phí ngày 14/01/2015. Tiền sự; Không. Nhân thân: Ngày 17/12/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/9/2004. Ngày 27/4/2007 bị Chủ tịch UBND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục dạy nghề hướng thiện tỉnh Bắc Ninh thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 19/11/2009. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/6/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Ng, sinh năm 1964 có hộ khẩu thường trú tại thôn PL, xã PL, huyện Quế Võ là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2006 đến nay. Khoảng 20 giờ ngày 25/6/2017, Ng đang ở nhà thì có Nguyễn Văn Th, sinh năm 1986 ở thôn Thất Gian, xã Châu Phong, huyện Quế Võ đi xe máy hiệu Wivern BKS 99H9- 7252 đến và rủ Ng đi mua ma túy để về cùng sử dụng. Ng đồng ý và cùng với Th đi sang xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ để tìm mua ma túy, trên đường đi Th đã điện thoại và hẹn một thanh niên để mua ma túy. Khi đến cổng trường mầm non xã Ngọc Xá, Th và Ng thấy một thanh niên đang đứng chờ, Th đã đưa cho Ng số tiền 100.000 đồng và bảo Ng đi mua ma túy. Ng đi đến và đưa cho người thanh niên số tiền 100.000 đồng, người thanh niên cầm tiền và sau đó chỉ tay xuống đất cách chỗ Ng đang đứng khoảng 1m và bảo “hàng để ở trong bao thuốc lá ý”. Ng cúi xuống cầm số ma túy đã mua đút vào túi áo ngực bên trái đang mặc sau đó đi về chỗ Th đang đứng đợi thì bị lực lượng Công an huyện Quế Võ kết hợp với Công an xã Ngọc Xá bắt quả tang. Thu giữ tại túi áo ngực bên trái của Ng đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White Horse màu vàng chanh bên trong có 01 gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng trong có chất bột màu trắng. Theo bản kết luận giám định số 893/KLGĐ-PC54 ngày 26/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh thì chất bột màu trắng thu giữ của Ng là ma túy Heroin có trọng lượng 0,0458 gam.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 169/CTr-VKS ngày 4/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ truy tố Trần Văn Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Ng khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng. Bị cáo thừa nhận khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/6/2016 bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra chứng cứ để buộc tội đối với Trần Văn Ng. Tuy trọng lượng ma túy mà Ng tàng trữ chỉ ở mức 0,0458 gam chưa đủ định lượng 0,1 gam như theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 24/12/2007, nhưng Ng đã bị Tòa án xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên hành vi tàng trữ trái phép 0,0458g Heroin của Ng lần này đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Văn Ng từ 24 đến 30 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án; Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự 1999; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy mẫu vật chứng còn lại sau giám định. Đối với chiếc điện thoại mà Th đã dùng để liên lạc mua ma túy, quá trình bắt giữ Th đã làm rơi mất, Cơ quan điều tra cũng không thu giữ được nên không xem xét xử lý. Đối với chiếc xe máy hiệu Wivern BKS 99H9- 7252 Thắng dùng để chở Ng đi mua ma túy, chiếc xe này có căn cứ để xác định là của ông Đoàn Công Thanh là chú của Th, ông Thanh không biết việc Th dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại ông Thanh là phù hợp. Đối với Nguyễn Văn Th là người cùng với Ng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng do lượng ma túy mà Th tàng trữ chưa đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính là thỏa đáng. Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho Ng, Ng và Th cũng không biết tên tuổi địa chỉ ở đâu nên cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bị cáo Ng nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về việc thực hiện trình tự tố tụng đối với vụ án: Quá trình thực hiện thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn Ng tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để kết luận; Khoảng 21h 30 phút ngày 25/6/2017 Trần Văn Ng đã bị bắt quả tang có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,0458 gam chất ma túy Hêroin trên người nhằm mục đích để sử dụng. Tuy số ma túy Heroin bị cáo Ng tàng trữ chỉ có 0,0458gam nhưng bị cáo ngày 24/10/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13/01/2014, chấp hành xong tiền án phí ngày 4/5/2012. Ngày 29/10/2014 bị cáo lại tiếp tục bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 7/8/2016. Cả hai bản án này là tình tiết để định tội đối với bị cáo nên hành vi tàng trữ trái phép số ma túy Heroin có trọng lượng 0,0458 gam của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho con người, cộng đồng và xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Do vậy, hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy; Bị cáo mặc dù lần phạm tội và bị đưa ra xét xử ngày 29/10/2014 chưa được xóa án tích tuy nhiên đây đã là tình tiết định tội đối với bị cáo do vậy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào khác. Về tính tiết giảm nhẹ, bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, lại có nhân thân xấu, nên cần có hình phạt thích đáng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo thành người lương thiện có ích cho xã hội. Đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Bộ luật hình sự năm 2015 tuy chưa có hiệu lực pháp luật nhưng về đường lối xét xử có quy định khung hình phạt theo hướng nhẹ hơn luật hình sự hiện hành.

Theo Nghị quyết số 41/2007/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì đây là quy định có lợi cho bị cáo nên được áp dụng để xem xét cân nhắc khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung, xét thấy hoàn cảnh của bị cáo là người nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế của bản thân, gia đình cũng khó khăn nên cần miễn hình phạt tiền cho bị cáo như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, quê quán, địa chỉ ở đâu. Cơ quan điều tra chưa xác minh được nên tách ra khi nào cơ quan điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với vật chứng của vụ án: Số Hêroin còn lại sau giám định là vật không được sử dụng nên cần áp dụng Điều 41 bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy hiệu Wivern BKS 99H9-7252 đây là tài sản hợp pháp của ông Thanh, ông Thanh không biết các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đả trả lại ông Thanh là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Văn Th   cũng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng do lượng ma túy mà Th tàng trữ chưa đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra chỉ xử phạt hành chính là có căn cứ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội: Xử phạt bị cáo Trần Văn Ng 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2017. Miễn hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Trần Văn Ng 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 26/10/2017 để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy Hêroin còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh (Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 4/10/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ)

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án. Buộc bị cáo Ng phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Ng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về