Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 24/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN - TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 297/2017/TLST-HNGĐ ngày 20/11/2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2017/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lương Kiều T, sinh năm 1987 (có mặt). Địa chỉ: Ấp TH, xã TQ, huyện MX, tỉnh ST.

2. Bị đơn: Ông Dương Văn N, sinh năm 1986 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp HP, xã HT 1, huyện MX, tỉnh ST.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 13/11/2017, chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn bà Lương Kiều T trình bày:

Bà và ông Dương Văn N kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân HT 1. Sau khi cưới, vợ chồng sinh sống bên gia đình chồng 02 năm thì về gia đình bà T tại xã TQ, huyện MX sinh sống. Vợ chồng hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn do ông N thường xuyên uống rượu say, ghen tuông không đi làm lo cuộc sống gia đình, vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên cải vã dẫn đến vợ chồng không còn hạnh phúc, nên ông N về nhà cha mẹ ruột của ông N tại ấp HP, xã HT 2, huyện MX. Nay bà T xác định hôn nhân không còn hạnh phúc, bà không còn tình cảm với ông N, giữa bà và ông N không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng, nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Dương Văn N.

Về con chung: Có một người con chung tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014, hiện nay đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được quyền nuôi con và yêu cầu ông Dương Văn N cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Dương Văn N: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã cấp, tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông Dương Văn N theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng ông Dương Văn N không gửi ý kiến bằng văn bản cho Toà án biết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông N cũng không đến Toà án để tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không đến tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn ông Dương Văn N đã được cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, vụ án được đưa ra xét xử đến lần thứ hai nhưng ông N vẫn vắng mặt không có lý do, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Dương Văn N.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 4 điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Áp dụng khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lương Kiều T; Về con chung: Giao cho bà Lương Kiều T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014 đến tuổi trưởng thành; Về cấp dưỡng nuôi con: Căn cứ vào khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 buộc ông Dương Văn N cấp dưỡng nuôi con tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014 theo quy định của pháp luật là ½ mức lương cơ bản, mức lương cơ bản thời điểm hiện tại là 1.300.000đ/tháng x ½ = 650.000đ, cấp dưỡng hàng tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm đến khi cháu Dương Nhật T đủ 18 tuổi; Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không đề cập; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Bị đơn, ông Dương Văn N đã được cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, vụ án được đưa ra xét xử đến lần thứ hai, nhưng ông N vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Dương Văn N.

Về nội dung:

[1] Vụ kiện của bà Lương Kiều T và ông Dương Văn N là loại kiện hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bà Lương Kiều T và ông Dương Văn N kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HT 1. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Lương Kiều T và ông Dương Văn N là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa hôm nay, bà T vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với ông N, vì ông N thường xuyên uống rượu say, ghen tuông không đi làm lo cuộc sống gia đình, vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên cải vã dẫn đến vợ chồng không còn hạnh phúc, bà không còn tình cảm với ông N, kể từ khi bà gửi đơn yêu cầu ly hôn đến Tòa án, bà và ông N không còn liên hệ với nhau, giữa bà và ông N không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà Lương Kiều T và ông Dương Văn N không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 1Điều 53, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lương Kiều T.

[2] Về con chung: Bà Lương Kiều T và ông Dương Văn N có một người con tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014, hiện nay con chung đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con, yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Xét thấy, cháu Dương Nhật T hiện nay đang sống với bà T và cháu mới được 37 tháng 25 ngày tuổi nên xét tiếp tục giao cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014 cho bà Lương Kiều T được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành.

[2.1] Ông Dương Văn N được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Xét thấy, tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”, ông N không phải là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và bà T yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con là phù hợp theo quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất buộc ông Dương Văn N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định là ½ mức lương cơ bản, mức lương cơ bản thời điểm hiện tại là 1.300.000đ/tháng x ½ = 650.000đ/tháng, cấp dưỡng hàng tháng,thời gian cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm (24/01/2018) cho đến khi cháu Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014 đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà Lương Kiều T trình bày không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí sơ thẩm: Bà Lương Kiều T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm theo định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Ông Dương Văn N phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 4 điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Áp dụng khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Lương Kiều T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Kiều T được quyền ly hôn với ông Dương Văn N.

2. Về con chung: Giao cho bà Lương Kiều T quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014 đến tuổi trưởng thành.

Ông Dương Văn N được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc ông Dương Văn N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con tên Dương Nhật T, sinh ngày 29/11/2014 số tiền là 650.000 đồng/01 tháng, cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm (24/01/2018) cho đến khi Dương Nhật T đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng được thực hiện tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên.

4. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không đề cập.

5. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.

6. Về án phí:

- Bà Lương Kiều T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008828 ngày 17/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên. Như vậy, bà T đã nộp xong.

- Ông Dương Văn N phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Nộp tại Chi cục Thi hành án huyện Mỹ Xuyên.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 24/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về