Bản án 04/2018/HSST ngày 11/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chống người thi hành công vụ và tội gây rối trật tự công cộng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 11/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY, CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ny 11 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 161/2017/HSST ngày 25/12/2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/HSST-QĐ ngày 02/01/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy Â- sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Tây Lương, huyện T, tỉnh T; trú tại: Số nhà 33C ngõ 87, phường L, quận Đ, thành phố H; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/12; con ông Nguyễn Văn B và bà Phạm Thị Tuyết M; vợ là Trần Thu H (không đăng ký kết hôn); có 02 con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại bản án số hình sự so thẩm số 298/2007/HSST ngày 31/7/2006, Toà án nhân dân quận B, thành phố H xử phạt bị cáo 08 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Trị giá tài sản trộm cắp là 5.3000.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2006/HSST ngày 04/10/2006 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh T xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", trị giá tài sản trộm cắp là 4.000.000đ. Tổng hợp hình phạt với bản án số 298/2007/HSST ngày 31/7/2017 của Toà án nhân dân quận B, Thành phố H buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 01 năm 02 tháng tù; ra trại ngày 18/6/2007. Về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự trong án hình sự bị cáo thi hành xong vào ngày 20/7/2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 162/2008/HSST ngày 31/7/2008/HSST ngày 31/7/2008, Toà án nhân dân quận C, Thành phố H xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", trị giá tài sản trộm cắp là 19.500.000đ; ra trại ngày 28/12/2008.

Án phí hình sự, án phí dân sự trong án hình sự Â thi hành xong ngày 20/11/2008; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/9/2017 (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Đoàn Ngọc Đ, sinh năm 1983; cán B Công an phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Anh Chu Bắc B, sinh năm 1991; cán B Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Bà Phạm Thị Tuyết M, sinh năm 1966; trú tại: Xã Vũ Hội, huyện V, tỉnh T (có mặt).

Nguyên đơn dân sự: Ngân hàng thương mại cổ phần C Việt Nam - Chi nhánh Nam V.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Trần Thị Thu H - Trưởng phòng giao dịch Chi nhánh Nam V (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Duy  bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 04 giờ ngày 13/9/2017, Nguyễn Duy  điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, biển kiểm soát: 30A - 636.63 từ H theo quốc lộ 2A lên tỉnh Vĩnh Phúc. Trên đường đi ( không nhớ chính xác địa điểm) thì  cởi áo và tư trang cá nhân rồi tiếp tục điều khiển xe ô tô về hướng thành phố V. Khoảng 09 giờ cùng ngày,  điều khiển ô tô đi đến Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc - Chi nhánh Nam V thuộc địa bàn phường K, thành phố V.  đỗ xe ở lề đường rồi đi B vào trong khu vực quầy giao dịch nơi các nhân viên Ngân hàng đang giao dịch với khách hàng, quát tháo “có ma, có quỷ, mày ra đây, tao biết mày ở đây, mày không trốn được đâu” (do trước đó  đã sử dụng ma túy đá nên bị ảo giác, hoang tưởng có ma quỷ). Lúc này,  vẫn đang cởi trần, đi chân đất và thái độ rất hung dữ, mắt trợn ngược, nhìn ngó xung quanh ngân hàng rồi  tiếp tục chạy vào nhà vệ sinh tầng 1 đập tay vào cửa nhằm phát ra tiếng kêu và quát lớn “ra đây, ra đây”. Thấy  có biểu hiện bất thường nên ông Cù Tiến A là bảo vệ của Ngân hàng đã yêu cầu  ra ngoài không được gây rối nhưng  lại chạy lên tầng 2 vào nhà vệ sinh hét lớn “ra đây, ra đây, mày không trốn được đâu”. Lúc này, bà Trần Thị Thu H là Trưởng phòng giao dịch của Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc- chi nhánh Nam V thấy tình hình xảy ra, các nhân viên của Ngân hàng và khách hàng đến giao dịch rất Hng mang, lo sợ, tất cả đều không làm việc được, đồng thời do lo sợ an toàn tài sản của Ngân hàng bị mất mát, chiếm đoạt nên bà H gọi điện báo cáo bà Nguyễn Thị Ngân H là Trưởng phòng tổ chức hành chính của Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc về sự việc nêu trên đồng thời xin ý kiến bà H tạm thời cho đóng cửa dừng giao dịch để đảm bảo an toàn. Bà H đồng ý và cử ông Đỗ Đức Thành là bảo vệ của Ngân hàng cùng đồng chí Chu Bắc B là cán B phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Vĩnh Phúc đang gác mục tiêu tại trụ sở Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc xuống phòng giao dịch Nam V nắm tình hình. Đồng thời bà H chỉ đạo ông Cù Tiến A gọi điện thoại báo cáo Công an phường K về sự việc trên. Lãnh đạo Công an phường K phân công đồng chí Đoàn Ngọc Đ là cán B Công an phường K đến giải quyết vụ việc. Lúc này, ông Cù Tiến A đã đưa được  ra khỏi khu vực giao dịch của Ngân hàng nên bà H bảo ông Tiến A đóng cửa chính của Ngân hàng lại, không cho  tiếp tục gây rối bên trong phòng giao dịch để đảm bảo an toàn trong lúc chờ Công an đến làm việc. Sau khi ra khỏi phòng giao dịch,  tiếp tục đập phá trước cửa Ngân hàng hò hét làm náo loạn khu vực xung quanh, rồi  đi vào trong xe ô tô ngồi và miệng lẩm bẩm bảo ông Tiến Anh: “ chú để ý, chúng nó trong đấy”. Khoảng 20 phút sau thì đồng chí Đ điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Future Neo, biển kiểm soát 88H8 – 1629 đến dựng xe trước đầu xe ô tô của Â. Lúc này đồng chí Chu Bắc B cũng đến phòng giao dịch và cùng đồng chí Đ giải quyết vụ việc. Tại đây đồng chí Đ hỏi  tên là gì, ở đâu và nhắc nhở  đi chỗ khác, không gây rối trật tự ở đây nhưng  không chấp hành mệnh lệnh mà cầm 01 chiếc gậy bằng kim loại 03 khúc dài khoảng 60 cm, màu đen rồi dồn đuổi đồng chí Đ và đồng chí B và hét lớn “mày lại đây, giỏi thì lại đây”. Do không đuổi kịp đồng chí Đ và đồng chí B nên  quay lại đặt chiếc gậy lên cặp sách ở yên xe máy của đồng chí Đ rồi vào trong xe ô tô. Thấy  đã vào trong xe ô tô nên đồng chí Đ quay lại thì  tiếp tục lấy 01 chiếc gậy bằng gỗ được làm từ hai đoạn sau của gậy chơi bi – a có sẵn trong xe ô tô để dồn đuổi đồng chí Đ nhưng  không đuổi kịp đồng chí Đ nên  quay lại vị trí xe máy của đồng chí Đ dùng gậy sắt 03 khúc đập vào phần đầu xe, yên xe và biển kiểm soát xe máy của đồng chí Đ gây hư hỏng. Khi  hò hét trước cửa Ngân hàng, sau đó dồn đuổi đồng chí Đ và đồng chí B và đập phá xe máy của đồng chí Đ thì tất cả những người dân bán hàng xung quanh phòng giao dịch không dám tiếp tục bán hàng và người đi đường đều rất hoảng sợ, lo lắng, đồng thời tập trung vây kín đoạn đường trước cửa Ngân hàng để theo dõi sự việc nên gây náo loạn và ách tắc giao thông. Thấy vậy, đồng chí Đ đã gọi điện báo cáo Lãnh đạo Công an phường K tăng cường lực lượng xuống phòng giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần C Việt Nam- chi nhánh Nam V bắt quả tang Nguyễn Duy  về hành vi chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng. Thu giữ: 01 gậy sắt 03 khúc có chiều dài khoảng 63cm được niêm phong kí hiệu A1, 01 gậy gỗ hình tròn dài khoảng 77cm màu nâu vàng đen được niêm phong kí hiệu A2 và tạm giữ xe ô tô biển kiểm soát 30A - 636.63.

Ny 21/9/2017, cơ quan điều tra Công an thành phố V tiến hành khám xét khẩn cấp xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, biển kiểm soát 30A - 636.63 thu giữ của Nguyễn Duy Â. Sau khi tiến hành mở niêm phong theo quy định đã khám xét, kết quả thu giữ:

- Thu tại mép sau cốp xe 02 túi nilon bên trong chứa hạt tinh thể rắn màu trắng; tại hốc lái cửa lái 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng; tại hốc chứa đồ phía trước 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng. Tổng cộng là 04 túi nilon chứa chất tinh thể rắn màu trắng nêu trên được niêm phong vào phong bì thư kí hiệu A1.

- Thu giữ tại ngăn để đồ ở hàng ghế phía sau 03 túi nilon bên trong chứa các viên nén được niêm phong kí hiệu A2, cụ thể:

+ Túi thứ nhất: bên trong chứa 28 viên nén hình tròn màu hồng bề mặt dập chìm hình tròn tim và ¼ viên nén có đặc điểm như các viên nén đã tả.

+ Túi thứ hai: bên trong chứa 03 viên nén màu hồng bề mặt dập chìm hình tròn tim, 02 viên nén màu xAhình vỏ sò, 01 viên nén màu xAhình trụ vát dập chìm hình búa liềm.

+ Túi thứ ba: bên trong chứa 29 viên nén màu đỏ bề mặt dập nổi hàng chữ “EA7”.

- Thu giữ tại hốc chứa đồ phía trước: 01 bản phô tô đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 30A – 636.63 có xác nhận của Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, BKS: 30A – 636.63; 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS: 30A – 636.63; 01 đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 30A – 636.63 và số tiền 12.700.000 đồng.

- Thu giữ 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen, 01 điện thoại di động Nokia 110i màu trắng.

- 01 đoạn gậy gỗ là một phần của gậy bi - a dài khoảng 77cm được niêm phong ký hiệu A3.

Tại kết luận định giá số 167 ngày 29/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố V kết luận: mặt kính đèn phía trước đầu xe bị đập vỡ thủng, có kích thước 20cm x 12cm trị giá 830.000đ; ốp nhựa phía dưới cụm đèn bị bung bật chốt hãm trị giá 250.000đ; bên phải biển số xe có dấu hiệu bị cong vênh, biến dạng trên diện 6cm x 14cm trị giá 70.000đ. Tất cả tài sản trên thuộc xe máy nhãn hiệu Honda Future Neo, BKS: 88H8 – 1629. Tổng trị giá thiệt hại là: 1.150.000đ.

Tại kết luận giám định số: 1115/KLGĐ ngày 23/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

Mẫu kí hiệu A1 gồm có:

+ 02 túi nilon đều chứa tinh thể dạng hạt màu trắng có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất loại Ketamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,4654g (hai phảy bốn sáu năm bốn gam, không kể bao bì).

+ 01 túi nilon chứa tinh thể dạng đá màu trắng có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất loại Ketamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,9305g (không phảy chín ba không năm gam, không kể bao bì).

+ 01 túi nilon chứa tinh thể dạng đá màu nâu nhạt có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Ketamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,3425g (một phảy ba bốn hai năm gam, không kể bao bì).

Mẫu kí hiệu A2 gồm có:

+ 01 túi nilon chứa 29 (hai mươi chín) viên nén hình tam giác, trên một mặt của mỗi viên đều in nổi ký tự “EA7” có trong mẫu kí hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại MDMA. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 11,4799g (mười một phảy bốn bảy chín chín gam, không kể bao bì).

+ 01 túi nilon chứa 28 (hai mươi tám) viên nén màu hồng nhạt và một phần của một viên nén có trong mẫu kí hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, có MDMA, Methamphetamine và Methylphenidate. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 9,9311g (không phảy chín ba một một gam, không kể bao bì).

+ 01 túi nilon chứa 03 (ba) viên nén màu hồng nhạt, 02 (hai) viên nén màu xAnh Đậm và 01 (một) viên nén màu xanh nhạt có trong mẫu kí hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, có MDMA, Methamphetamine và Methylphenidate. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,2281g (hai phảy hai hai tám một gam, không kể bao bì).

Tại bản kết luận giám định số: 1295/KLGĐ ngày 28/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng kết quả phân tích của Viện kH học hình sự B Công An, kết luận:

1. Khối lượng chất ma túy Ketamine trong 2,4654g mẫu tinh thể dạng hạt màu trắng có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là: 1,2499g (một phảy hai bốn chín chín gam).

2. Khối lượng chất ma túy Ketamine trong 0,9305g mẫu tinh thể dạng đá màu trắng có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là: 0,7564g (không phảy bảy năm sáu bốn gam).

3. Khối lượng chất ma túy Ketamine trong 1,3425g mẫu tinh thể dạng đá màu nâu nhạt có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là: 0,9263g (không phảy chín hai sáu ba gam).

4. Khối lượng chất ma túy MDMA trong 11,4799g mẫu viên nén hình tam giác, trên một mặt của mỗi viên đều in nổi ký tự “EA7” có trong mẫu kí hiệu A2 gửi giám định là: 4,6837g (bốn phảy sáu tám ba bảy gam).

5. Khối lượng chất ma túy Methamphetamine và MDMA trong 9,9311g viên nén màu hồng nhạt và một phần của một viên nén có trong mẫu kí hiệu A2 gửi giám định lần lượt là: 0,1191g (không phảy một một chín một gam) và 2,8402g (hai phảy tám bốn không hai gam).

Không xác định được khối lượng chất ma túy Methylphenidate có trong 9,9311g mẫu gửi giám định do chưa có mẫu chuẩn định lượng.

6. Khối lượng chất ma túy Methamphetamine và MDMA trong 2,2281g mẫu của 03 viên nén màu hồng nhạt; 02 viên nén màu xAnh Đậm và 01 viên nén màu xanh nhạt có trong mẫu kí hiệu A2 gửi giám định lần lượt là: 0,0579g (không phảy không năm bảy chín gam) và 0,7219g (không phảy bảy hai một chín gam).

Không xác định được khối lượng chất ma túy Methylphenidate có trong 2,2281g mẫu gửi giám định do chưa có mẫu chuẩn định lượng.

Hoàn lại trực tiếp mẫu vật còn lại sau giám định gồm: mẫu kí hiệu A1 gồm: 3,552 gam; mẫu kí hiệu A2 gồm: 20,3539 gam mẫu cùng toàn B bao gói.

Tại kết luận giám định số: 1410/KLGĐ ngày 23/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

1. Mẫu kí hiệu A1 gửi giám định không phải là vũ khí quân dụng mà có tính năng, tác dụng tương tự dùi cui kim loại thuộc công cụ hỗ trợ theo quy định tại điểm d khoản 9 điều 3 Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 do Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành ngày 30/6/2011 quy định về “Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ” và theo khoản 1, điều 3 Nghị định 25/2012/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 05/4/2012 “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ”.

2. Mẫu kí hiệu A2, A3 không thuộc danh mục vũ khí, công cụ hỗ trợ. Hoàn lại nguyên trạng mẫu vật gửi giám định cho cơ quan trưng cầu.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Â, quá trình điều tra xác định:  mua ma túy của nhiều người ở khu vực thành phố H vào các thời điểm khác nhau (không nhớ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người bán, địa điểm và thời gian mua ma túy). Mục đích  mua ma túy để tàng trữ sử dụng cho nhu cầu của bản thân.

Với hành vi như trên, tại Cáo trạng số 03/KSĐT- TA ngày 21/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Nguyễn Duy  về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015tội "Gây rối trật tự công cộng" theo điểm a khoản 2 Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 và tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy  khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Anh Đoàn Ngọc Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra khai nhận: Hồi 09 giờ 30 phút ngày 13/9/2017, nhận được tin báo của ông Cù Tiến A là bảo vệ Ngân hàng báo cáo về việc có nam giới đến gây rối. Anh Đ được Anh Lê Khánh Toàn là Phó Trưởng Công an phường K phân công đến giải quyết vụ việc. Anh Đ đi xe Future biển kiểm soát 88H8- 1629 đến thì được ông Cù Tiến A chỉ đối tượng gây rối. Anh Đ đến hỏi tên và giới thiệu mình là cán B Công an phường K và đề nghị Â chấm dứt hành vi vi phạm. Â cầm gậy sắt dồn đuổi Anh Đ và dùng gậy đập xe máy của Anh Đ làm hư hỏng đèn xe, biển kiểm soát và yên xe thiệt hại là 1.150.000đ. Sau khi sự việc xảy ra, Anh Đ đã nhận đủ tiền bồi thường và không có yêu cầu, đề nghị gì (bút lục 32; bút lục 195-197).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Anh Chu Bắc B vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra khai nhận: Anh B là cán B Phòng cảnh sát cơ động- Công an tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng 09 giờ ngày 13/9/2017 được phân công đến Ngân hàng Viettin Bank Chi nhánh Nam V hỗ trợ do có người đến gây rối thì bị người này cầm gậy dồn đuổi (bút lục 33; bút lục 189- 190).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Phạm Thị Tuyết M khai nhận: Do  là con của bà M nên bà M đã bồi thường cho Anh Đoàn Ngọc Đ thay cho  số tiền 1.150.000đ do  đập phá xe máy của Anh Đ. Bà M không yêu cầu  phải trả lại số tiền này.

Đại diện nguyên đơn dân sự, bà Trần Thị Thu H - Trưởng phòng giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần C Việt Nam - chi nhánh Nam V vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong quá trình điều tra khai nhận: Sáng ngày 13/9/2017 có 01 nam thanh niên cởi trần, đi chân đất đến trụ sở của chi nhánh mắt trợn ngược, mồm lẩm bẩm bắt ma, bắt quỷ. Lúc này phòng giao dịch có nhiều cán B làm việc và khách hàng đến giao dịch rất hoảng sợ. Đối tượng này có biểu hiện không bình thường và cầm gậy dồn đuổi hai đồng chí Công an đến làm nhiệm vụ và gây náo loạn nên phải đóng cửa phòng giao dịch (từ bút lục 173- 176).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 245; khoản 1 Điều 257; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy  từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng" và từ 07 tháng đến 09 tháng tù về tội "Chống người thi hành công vụ". Áp dụng Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 1999 buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 3 tội từ 07 năm 07 tháng đến 08 năm 09 tháng tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Duy  không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đại diện nguyên đơn dân sự, người làm chứng về thời gian, địa điểm và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan, đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Do buổi tối ngày 12/9/2017, Nguyễn Duy  đã sử dụng ma tuý đá nên bị ảo giác. Khoảng 09 giờ ngày 13/9/2017  đỗ xe ô tô nhãn hiệu Civic biển kiểm soát 30A- 636.63 trước phòng giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc - Chi nhánh Nam V có trụ sở thuộc phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc rồi đi B vào trong Ngân hàng la hét, quậy phá tìm bắt ma quỷ làm nhân viên Ngân hàng và các khách hàng đến giao dịch hoảng sợ. Hậu quả Ngân hàng phải đóng cửa tạm thời 30 phút. Đồng thời chi nhánh báo cáo lãnh đạo Công an phường K và phòng tổ chức hành chính của Ngân hàng C tỉnh Vĩnh Phúc cử cán B đến giải quyết sự việc. Khi đồng chí Đoàn Ngọc Đ là cán B công an phường K và đồng chí Chu Bắc B là cán B Phòng Cảnh sát cơ động công an tỉnh Vĩnh Phúc được phân công nhiệm vụ đến giải quyết sự việc thì  không chấp hành mệnh lệnh của đồng chí Đ mà cầm gậy sắt là hung khí có tính chất, tác dụng tương tự như công cụ hỗ trợ để dồn đuổi đồng chí Đ và đồng chí B làm cho công vụ của những người được giao trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự công cộng không được thực hiện. Sau đó  tiếp tục đập phá xe máy của đồng chí Đ gây thiệt hại là 1.150.000đ. Do đó, lãnh đạo Công an phường K đã tăng cường lực lượng đến phòng giao dịch đến bắt giữ Â. Quá trình bắt giữ, tiến hành khám xét khẩn cấp xe ô tô do  điều khiển, thu giữ 28,3775g mẫu có khối lượng là 11,3554g các loại ma tuý ở thể rắn bao gồm: MDMA, Ketamine, Methamphetamine và Methylphenidate.  khai mục đích tàng trữ số ma tuý trên để sử dụng cho nhu cầu của bản thân.

Hành vi cầm gậy sắt có tính chất, tác dụng tương tự công cụ hỗ trợ được quy định tại Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 30/6/2011 quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và Nghị định 25/2012/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày 05/4/2012 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ đuổi đánh đồng chí Đoàn Ngọc Đ là cán B Công an phường K và đồng chí Chu Bắc B là cán B phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Vĩnh Phúc trong khi đồng chí Đ và đồng chí B đang làm nhiệm vụ tại phòng giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc- Chi nhánh nam V của Nguyễn Duy  phạm tội "Chống người thi hành công vụ" theo quy định tại khoản 1 Điều 257 của Bộ luật hình sự năm 1999, nội dung điều luật quy định:

"1. Người nào …… đe doạ dùng vũ lực ……cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ ….. thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Hành vi hò hét, đập phá tại phòng giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần C tỉnh Vĩnh Phúc - Chi nhánh Nam V, sau đó tiếp tục hò hét trước cửa phòng giao dịch làm phòng giao dịch phải ngưng trệ hoạt động trong thời gian 30 phút, những hộ dân kinh doAxung quanh ngân hàng phải hoảng sợ không dám tiếp tục bán hàng và thiệt hại về tài sản bị đập phá là 1.150.000đ của Nguyễn Duy  đã phạm tội "Gây rối trật tự công cộng" theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 245 của Bộ luật hình sự năm 1999. Nội dung điều luật quy định:

"2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a. Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách".

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý ở thể rắn với tổng khối lượng 11,3554g của Nguyễn Duy  đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên khối lượng chất ma tuý trong 28,3775g mẫu gửi giám định theo kết luận giám định là 11,3554g nên hành vi này của bị cáo sẽ được xét xử về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tương ứng với khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, thì tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào…………….tàng trữ trái phép chất ma tuý…….thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

g. Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam. Mặc dù Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng như đã phân tích ở trên thì hành vi của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999. Theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn đưa bị cáo ra xét xử theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội quy định một hình phạt nhẹ hơn, có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng. Do vậy bị cáo được áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đối với tội "Chống người thi hành công vụ" đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của Nhà nước và xã hội. Đối với tội "Gây rối trật tự công cộng" bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, vi phạm quy tắc sống lành mạnh cũng như hoạt động bình thường của xã hội tại những khu vực công cộng. Đối với tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Do đó cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm minh để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo là người có nhân thân xấu, trước khi phạm tội đã 03 lần bị đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Chỉ vì sử dụng ma túy mà bị cáo tự đưa mình vào tình trạng mất kiểm soát hành vi của bản thân dẫn đến việc hò hét, đập phá. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

Đối với hành vi của Nguyễn Duy  trong khi gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ đã đập phá làm hư hỏng xe máy, biển kiểm soát 88H8 – 1629 của đồng chí Đoàn Ngọc Đ, cán B Công an phường K được phân công xuống hiện trường giải quyết vụ việc có dấu hiệu của tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản". Tuy nhiên do thiệt hại chưa đến mức xử lý bằng hình sự, do vậy cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, biển kiểm soát 30A – 636.63 thu giữ của  khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên đứng tên đăng ký sở hữu là AKhúc Trần Tuấn ở số nhà 31 Hàm Long, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, thành phố H. Vào khoảng tháng 8 năm 2016, bà Phạm Thị Tuyết M (là mẹ đẻ của Â) đã đưa cho  400.000.000đ để  mua chiếc xe ô tô của ATuấn để kinh doAlái xe taxi. Khi mua bán không làm giấy tờ mua bán.Quá trình điều tra xác định nguồn gốc số tiền mua xe ô tô là của bà M và sau khi mua xe ô tô trên bà M giao cho  mượn để đi làm ăn, bà M không biết gì về sự việc phạm tội của Â.

Do vậy, Công an thành phố V đã trả chiếc xe trên cùng toàn B giấy tờ xe gồm: 01 đăng ký xe ô tô, BKS: 30A – 636.63, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, 01 giấy kiểm định xe và 01 giấy đăng ký xe ô tô bản phô tô cho bà M. Sau khi nhận lại tài sản, bà M không có yêu cầu đề nghị gì.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với thiệt hại xe máy của đồng chí Đoàn Ngọc Đ do hành vi đập phá của  gây ra, bà Phạm Thị Tuyết M (mẹ bị cáo Â) đã bồi thường cho đồng chí Đ số tiền 1.150.000đ và không yêu cầu về bồi thường dân sự.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 03 chiếc gậy thu giữ của  là công cụ dùng vào việc phạm tội do không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 24,3184g mẫu ma túy ở thể rắn hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 7 màu đen và 01 điện thoại Nokia màu trắng và số tiền 12.700.000đ thu giữ của  không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy  phạm các tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; “Chống người thi hành công vụ” và tội "Gây rối trật tự công cộng " .

Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 194; khoản 1 Điều 257, điểm a khoản 2 Điều 245, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 298 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Duy  02 (hai) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; 06 (sáu) tháng tù về tội "Chống người thi hành công vụ"; 02 (hai) năm tù về tội "Gây rối trật tự công cộng"; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 3 tội là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/9/2017.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Tịch thu tiêu hủy 03 chiếc gậy thu giữ của Nguyễn Duy Â.

Tịch thu tiêu huỷ 24,3184g mẫu ma tuý ở thể rắn trong 02 bì thư niêm phong ma tuý còn lại.

Trả lại Nguyễn Duy  01 điện thoại Iphone 7 màu đen, 01 điện thoại Nokia 110i màu trắng và số tiền 12.7 00.000đ nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án, (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2018).

Bị cáo Nguyễn Duy  phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, đại diện nguyên đơn dân sự vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HSST ngày 11/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chống người thi hành công vụ và tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:04/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về