Bản án 04/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2018/KDTM-ST NGÀY 05/11/2018VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 05 tháng 11 năm 2018 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 05/2018/TLST-KDTM ngày 15 tháng 8 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2018/QĐXXST-KDTM ngày 25 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân H.

Địa chỉ: Số 1, đường Trần Hưng Đ, ấp Nội, thị trấn H, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Quỹ tín dụng nhân dân H: Ông Trần Văn L - Theo giấy ủy quyền tham gia tố tụng số 06/UQ2018 ngày 31/8/2018 (có mặt);

Địa chỉ: ấp Mỹ T, thị trấn H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T.

2. Bị đơn:

- Ông Lê Văn M (vắng mặt);

- Bà Trần Thị Mỹ L (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp Xóm L, xã Mỹ H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07 tháng 6 năm 2018 của Quỹ tín dụng nhân dân H và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm ông Trần Văn L, là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Theo hợp đồng tín dụng số 2275/16 ngày 15/11/2016 ông Lê Văn M có vay của Quỹ tín dụng nhân dân H số tiền vay ban đầu là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng); Thời hạn vay là 186 ngày; Lãi suất 1,85%/tháng (22,2%/năm); Ngày giải ngân là ngày 15/11/2016 hết hạn hợp đồng ngày 20/5/2017; Mục đích vay mua bán nhỏ; Hình thức vay trả góp ngày, không có tài sản bảo đảm.

Theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng ngày 15/11/2016 thì bên vay phải trả nợ vay cho Quỹ tín dụng nhân dân H tổng cộng số tiền (gốc và lãi) là 33.441.000 đồng và mỗi ngày trả là 180.000 đồng, ngày cuối cùng trả 141.000 đồng. Đến ngày 02/02/2017 ông Lê Văn M trả được 79 ngày (180.000 đồng x 79 ngày = 14.220.000 đồng). Như vậy số tiền ông Minh còn nợ lại Quỹ tín dụng nhân dân H là 19.221.000 đồng (bao gồm gốc 17.241.500 đồng, tiền lãi 1.979.500 đồng) và số tiền vay của ông M đã chuyển nợ quá hạn.

Quỹ tín dụng nhân dân H yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú giải quyết. Buộc ông Lê Văn M và bà Trần Thị Mỹ L trả nợ cho Quỹ tín dụng nhân dân H gồm: Số tiền nợ gốc và lãi là: 19.221.000 đồng.

Đối với các bị đơn ông Lê Văn M, bà Trần Thị Mỹ L: Ông M và bà L đã bỏ địa phương, không cung cấp địa chỉ nơi cư trú mới nên sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông M, bà L được. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho ông M, bà L theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự: Thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

- Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật. Riêng các bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc các bị đơn liên đới trả cho nguyên đơn số tiền vay gốc và lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho các bị đơn ông M; bà L đến lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, các bị đơn ông M; bà L vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bị đơn ông Lê Văn M và bà Trần Thị Mỹ L.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Hội đồng xét xử nhận thấy, Quỹ tín dụng nhân dân H ký hợp đồng tín dụng cho ông M, bà L vay tiền với mục đích mua bán nhỏ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông M, bà L trả nợ không đúng như thỏa thuận nên Qũy tín dụng nhân dân H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông M, bà L cùng liên đới trả số tiền vay vốn và lãi còn thiếu. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng tín dụng.

[3] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn có địa chỉ ấp Xóm L, xã Mỹ H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T, theo quy định điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của Qũy tín dụng nhân dân H về việc yêu cầu các bị đơn liên đới trả số tiền vay gốc và tiền lãi. Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo thỏa thuận tại Điều 1 và Điều 2 của hợp đồng tín dụng số 2275/16 ngày 15/11/2016 thì thời hạn cho vay là 186 ngày, phương thức trả tiền vay mỗi ngày (bao gồm gốc và lãi). Trong quá trình vay các bị đơn thanh toán đến ngày 02/02/2017 được 79 ngày số tiền là 14.220.000 đồng. Từ ngày 03/02/2017 đến nay các bị đơn không thực hiện đúng theo thỏa thuận, các bị đơn đã vi phạm hợp đồng. Nên Qũy tín dụng nhân dân H khởi kiện yêu cầu các bị đơn liên đới trả nợ gốc và lãi.

[5] Theo án lệ số 08/2016AL về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng, tổ chức tín dụng với khách hàng vay, được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16-5-2013 và được công bố theo Quyết định 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay”.

[6] Hội đồng xét xử nhận thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong vụ án này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định tại Điều 471, 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005. Khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010. Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng

Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-2-2005 và án lệ số 08/2016AL, có đủ cơ sở để buộc các bị đơn trả nợ cho Quỹ tín dụng nhân dân H tính số tiền gốc và lãi là 19.221.000 đồng. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (tức ngày 05/11/2018), ông M, bà L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 2275/16 ngày 15/11/2016, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay. Như vậy, yêu cầu của Qũy tín dụng nhân dân H là có căn cứ chấp nhận.

[7] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 26

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Ông M, bà L, liên đới phải chịu là 3.000.000 đồng. Qũy tín dụng nhân dân H không phải chịu án

phí Kinh doanh thương maị sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 273 và khoan 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 471, 474 và 476 Bộ luật dân sự năm 2005. Khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng năm 2010. Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-2-2005. Án lệ số 08/2016AL được công bố theo Quyết định 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Qũy tín dụng nhân dân H. Buộc các bị đơn ông Lê Văn M, bà Trần Thị Mỹ L có nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn Qũy tín dụng nhân dân H số tiền vay tổng cộng 19.221.000 đồng (trong đó, tiền gốc 17.241.500 đồng; tiền lãi 1.979.500 đồng).

2. Kể từ ngày 06/11/2018 các bị đơn chưa thanh toán số nợ trên cho nguyên đơn thì hàng tháng các bị đơn còn phải trả lãi cho nguyên đơn mức lãi suất theo hợp đồng tín dụng số: 2275/16 ngày 15/11/2016, đối với số tiền gốc chậm thi hành án. đồng.

3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

- Các bị đơn ông Lê Văn M, bà Trần Thị Mỹ L liên đới phải chịu là 3.000.000

- Nguyên đơn Qũy tín dụng nhân dân H không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000 đồng, theo biên lai số 0003464 ngày 08/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng các bị đơn thì thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trinh tư phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

519
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:04/2018/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về