Bản án 04/2019/DS-ST ngày 13/06/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2019/DS-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 119/2018/TLST- DS ngày 25 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng . Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST- DS ngày 25 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ

Địa chỉ: Số 130 P, phường 3, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T; Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền:

1. Bà Chu Thị N; Chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh V (vắng mặt).

2. Bà Đinh Thị H, sinh năm 1990 (có mặt).

Đều có địa chỉ: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh V, số 115 đường H, phường T, thành phố V, tịn Vĩnh Phúc.

Bị đơn:

1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1987

2. Ông Lê Văn K, sinh năm 1985

Đều có địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn Thôn H, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại tòa án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bà Đinh Thị H trình bày: Hội Liên Hiệp Phụ Nữ xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc hiện đang liên kết với ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh V để triển khai chương trình cho vay “Cùng Hội Phụ Nữ Vượt Khó”. Thông qua Hội phụ nữ xã L, Ngân hàng Đ có cấp tín dụng cho khách hàng là bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1987 và ông Lê Văn K, sinh năm 1985 (chồng của bà H); đều có địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Hình thức cấp tín dụng là Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương thức sử dụng vốn số: 135518501T17001 ngày 25 tháng 05 năm 2017. Số tiền vay theo hợp đồng là 15.000.000đ( Mười lăm triệu đồng); lãi suất 10%/năm; thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày 25 tháng 5 năm 2017 cho đến ngày 25 tháng 5 năm 2018; mục đích vay là để phục vụ chăn nuôi của vợ chồng bà H và ông K. Bà H đã được Ngân hàng Đ mở tài khoản thẻ số 0108664557 với số tiền là 15.000.000 đồng đứng tên chủ tài khoản Nguyễn Thị H. Mỗi tháng bà H và ông K phải trả cho Ngân hàng Đ 1.375.000 đồng, bao gồm cả một phần tiền gốc và tiền lãi. Bà H và ông K không phải thế chấp tài sản gì để đảm bảo khoản vay. Quá trình thực hiện hợp đồng thì bà H và ông K đã trả được 10.990.385 đồng tiền gốc; tiền lãi trong hạn :1.384.615 đồng. Tổng số tiền bà H và ông K đã trả được cho Ngân hàng Đ là 12.375.000 đồng (tiền gốc và tiền lãi được từ ngày 25 tháng 5 năm 2018 đến hết ngày 04 tháng 09 năm 2018). từ ngày 05 tháng 9 năm 2018 thì bà H và ông K đã không thực hiện, nghĩa vụ trả tiền gốc, tiền lãi cho Ngân hàng Đ. 

Tính đến hết ngày 12 tháng 6 năm 2019, thì vợ chồng bà H và ông K còn nợ Ngân hàng TMCP Đ tổng số tiền là 5.307.000 đồng (trong đó tiền gốc là 4.009.615 đồng, tiền lãi trong hạn là 115.385 đồng, tiền lãi quá hạn là 1.182.000 đồng)

Nay nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ đề nghị Tòa án giải quyết, buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K phải trả ngay cho Ngân hàng toàn bộ số tiền gốc và lãi là 5.307.000 đồng. Bà H và ông K còn phải tiếp tục chịu lãi theo hợp đồng tín dụng kể từ ngày 13 tháng 6 năm 2019 cho đến khi thực hiện song nghĩa vụ trả nợ.

Bị đơn bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều văng mặt không có lý do. Vì vậy Tòa án không thể yêu cầu bà H và ông K viết bản tự khai hay lấy lời khai của bà H và ông K theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Biên bản lấy lời khai ngày 04 tháng 6 năm 2019, bà T trình bày: Bà là Chủ tịch Hội phụ nữ xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Bà thừa nhận việc Hội phụ nữ xã L liên kết với Ngân hàng Đ để thực hiện việc cho các thành viên Hội phụ nữ xã L vay vốn của Ngân hàng Đ để phát triển kinh tế gia đình. Bản thân bà Nguyễn Thị H là thành viên Hội phụ nữ nên thuộc đối tượng được vay vốn của Ngân hàng Đ. Việc xác lập hợp đồng tín dụng giữa vợ chồng bà H và ông K với Ngân hàng Đ như thế nào thì Hội phụ nữ xã L không có liên quan gì. Hội phụ nữ chỉ có trách nhiệm đôn đốc việc thực hiện hợp đồng đối với bà H và ông K. Hội phụ nữ xã L không phải là người bảo lãnh để bà H, ông K thực hiện việc vay vốn của Ngân hàng Đ.

Nay Ngân hàng Thương Mại cổ phần Đ khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến thời điểm thời điểm xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự như: Thụ lý và thông báo về việc thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định đúng quan hệ tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng trong vụ án; chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử, ban hành và gửi thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát theo đúng quy định. Thẩm phán đã thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định; tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Không kiến nghị gì về tố tụng. Về quan điểm giải quyết vụ án:

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 280, 351, 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi số tiền gốc và lãi trên của Ngân hàng TMCP Đ đối với bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K

Ông K bà H phải thanh toán cho ngân hàng số tiền còn nợ tính đến 12/6/2019 tổng số tiền là 5.307.000 đồng (trong đó gốc là 4.009.615 đồng, lãi trong hạn là 115.385 đồng, lãi quá hạn 1.182.000 đồng) và còn phải chịu lãi theo hợp đồng tín dụng kể ngày 13/6/2019 cho đến khi thực hiện song nghĩa vụ trả nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy việc kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

[2]Về tố tụng: Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H, ông Lê Văn K và bà Nguyễn Thị T đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều thuộc trường hợp đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Đối với bị đơn trong vụ án là bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K quá trình giải quyết vụ án thì đều không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời bà H và ông K cũng không có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì có đủ cơ sở để xác định quá trình thực hiện hợp đồng, bà H và ông K mới trả được tổng số tiền là 12.375.000 đồng ( trong đó 10.990.385 đồng tiền gốc; tiền lãi trong hạn :1.384.615 đồng) tính từ ngày 25/5/2017 đến hết ngày 04/9/2018. Từ ngày 05/9/2018 thì bà H và ông K đã vi phạm hợp đồng tín dụng về nghĩa vụ trả tiền gốc, tiền lãi cho nguyên đơn. Tính đến hết 12/6/2019 thì ông K và bà H còn nợ nguyên đơn số tiền là 5.307.000 đồng, trong đó tiền gốc là 4.009.615 đồng; tiền lãi trong hạn 115.385 đồng và tiền lãi quá hạn là 1.182.000 đồng. Mức lãi suất và số tiền lãi nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc ông K và bà H phải chịu là phù hợp quy định về lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng

Vì vậy việc nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị H ,ông Lê Văn K phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ là phù hợp với quy định tại Điều 95 Luật Tổ chức tín dụng; nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí:

Bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 2 Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 278; Điều 280; Điều 351; Điều 463; Điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

Buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền 5.307.000 trong đó gốc là 4.009.615 đồng, tiền lãi trong hạn là 115.385 đồng và tiền lãi quá hạn là 1.182.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K còn phải chịu lãi suất theo hợp đồng tín dụng kể từ ngày 13 thàng 6 năm 2019 cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.

2. Về án phí:

Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số: AA/2017/0001989 ngày 19 tháng12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường.

Bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn K phải chịu 300.000 án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thị hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thục hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/DS-ST ngày 13/06/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:04/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về