Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về khởi kiện xin ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ KHỞI KIỆN XIN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 12/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2019 về Khởi kiện xin ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hồng H, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1989; địa chỉ thường trú tại: Thôn P, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; tạm trú tại: Xóm T, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, có mặt.

- Bị đơn: Anh Ngụy Đình S, sinh ngày 29 tháng 4 năm 1990; địa chỉ thường trú: Thôn B, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Hồng H như sau: Chị H kết hôn với anh Ngụy Đình S vào năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; cuộc sống ban đầu hạnh phúc, sau một thời gian đến năm 2017 chị H phát hiện anh S nghiện chất ma túy, chị H đã khuyên bảo, anh S cũng không thay đổi, anh S còn đánh lô, đề và vay tiền của người khác để tiêu xài cá nhân, khi không trả được tiền anh S lại về đòi tiền chị H để trả nợ và những người cho vay tiền đã nhiều lần đến đòi chị H phải trả tiền giúp anh S, trong cuộc sống gia đình anh S thường xúc phạm chị H như chửi, nói xấu trên mạng xã hội có lần còn đến nơi làm việc của chị H dọa đánh. Nay chị H thấy không thể sống chung được nên khởi kiện xin ly hôn với anh S. Về con chung chị H với anh S có 01 người con chung là Ngụy Hoàng Bảo T, sinh ngày 24/6/2015, khi ly hôn chị H xin nuôi con chung và không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản và các khoản đi vay và cho vay chung của hai vợ chồng không có.

Tại phiên tòa Vị đại diện viện kiểm sát phát biểu và kết luận về thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật để giải quyết vụ án và nguyên đơn đã chấp hành theo đúng quy định pháp luật; đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng mặt, Tòa án cũng đã niêm yết, tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án ý kiến của Vị đại diện viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị Hồng H, cho chị Hoàng Thị Hồng H ly hôn với anh Ngụy Đình S do cuộc sống gia đình của chị H với anh S có nhiều mâu thuẫn căn cứ theo Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cho chị H ly hôn với anh S; còn về con chung đề nghị giao con chung cho chị Hoàng Thị Hồng H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến đủ tuổi thành niên và không buộc anh Ngụy Đình S cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con; tài sản chung, các khoản vay mượn đều không có, nên không xem xét giải quyết và chị H phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định như sau: Chị Hoàng Thị Hồng H với anh Ngụy Đình S kết hôn với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn là hôn nhân hợp pháp theo Điều 8, 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Thời gian đầu hai vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2017 chị H phát hiện anh S nghiện chất ma túy, chơi lô, đề và vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn cãi, chửi nhau, nhiều khi anh S còn đe dọa đánh chị H, đăng tin bêu xấu chị H trên mạng xã hội và gây khó khăn tại công ty nơi chị H làm việc để chị H bị công ty đuổi việc, nay thấy cuộc sống gia đình ngày càng mâu thuẫn nên chị H khởi kiện xin ly hôn và khi ly hôn chị H xin được trực tiếp nuôi con chung là Ngụy Hoàng Bảo T, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2015 đến đủ tuổi thành niên và không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản và các khoản vay, cho vay không có. Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt anh Ngụy Định S, mặc dù anh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần và Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn anh Ngụy Đình S theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét về cuộc sống gia đình của chị Hoàng Thị Hồng H và anh Ngụy Đình S, thấy mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng do anh S nghiện chất ma túy, chơi lô, đề và vợ chồng thường xẩy ra mâu thuẫn cãi, chửi nhau, nhiều khi anh S còn đe dọa đánh chị H, đăng tin bêu xấu chị H trên mạng xã hội và gây khó khăn để chị H bị công ty đuổi việc, chị H không thể chịu được nên đã bỏ về quê tại tỉnh Thái Nguyên sinh sống và hiện nay cả hai người đã sống ly thân, thấy cuộc sống chung của vợ chồng chị H, anh S không thể kéo dài, mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nhận thấy yêu cầu của chị Hoàng Thị Hồng H xin ly hôn với anh Ngụy Đình S là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, nhận định này cũng phù hợp với ý kiến của Vị đại diện viện kiểm sát tại phiên toà về việc giải quyết vụ án theo Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về con chung, chị H với anh S có 01 con chung là cháu Ngụy Hoàng Bảo T, sinh ngày 24/6/2015, thấy hiện tại cháu đang sống cùng mẹ và để đảm bảo quyền lợi ăn, ở, học hành của các cháu nên giao cháu cho chị Hoàng Thị Hồng H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc là có căn cứ. Theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình anh Ngụy Đình S vẫn có quyền thường xuyên đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung và nếu sau này anh Sơn có yêu cầu thì Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và các khoản vay và cho vay: Không có.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, chị Hoàng Thị Hồng H không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung, do đó, Hội đồng xét xử không buộc anh Ngụy Đình S phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con theo quy định tại Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về án phí, căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự chị Hoàng Thị Hồng H là người phải chịu án phí dân sự trong vụ án Hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự và các Điều 56; 57; 58, 81; 82; 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

2. Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị Hồng H, cho chị Hoàng Thị Hồng H ly hôn với anh Ngụy Đình S.

- Về con chung: Giao cháu Ngụy Hoàng Bảo T, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2015 cho chị Hoàng Thị Hồng H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến đủ tuổi thành niên (18 tuổi). Anh Ngụy Đình S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, anh Ngụy Đình S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và các khoản vay và cho vay: Không có.

- Về án phí: Chị Hoàng Thị Hồng H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà chị H đã nộp tại biên lai số: AA/2012/03033 ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Xác nhận chị Hoàng Thị Hồng H đã nộp đủ.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho chị Hoàng Thị Hồng H biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đối với bị đơn anh Ngụy Đình Sơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về khởi kiện xin ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về