Bản án 04/2019/HS-ST ngày 13/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 13/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019, đối với:

- Bị cáo: Châu Thị Thanh T, tên gọi khác: không có, sinh năm 1997, nơi cư trú: ấp L, xã LT, huyện Châu Thành, tỉnh Long An; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Châu Văn Đ và bà Phan Thị Thùy L; bị cáo đã ly hôn với chồng, bị cáo có 01 người con sinh năm 2016; tiền sự: không, tiền án: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30 tháng 10 năm 2018 đến ngày 15 tháng 01 năm 2019, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Bị cáo: Tăng Minh P, tên gọi khác: không có, sinh năm 1992, nơi cư trú: ấp P, xã PT, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Minh C và bà Đoàn Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không, tiền án: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30 tháng 10 năm 2018 đến ngày 15 tháng 01 năm 2019, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Bà Trần Thị Thu D, sinh năm 1960, địa chỉ: ấp Th H, xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.(có mặt tại phiên tòa)

- Người làm chứng: Chị Lê Trần Ph, sinh năm 1992, địa chỉ: ấp Th H, xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.(vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P cho chị Lê Trần Phương Uyên vay tiền và chị Ph còn nợ các bị cáo số tiền là 150.000.000 đồng. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 10 tháng 9 năm 2018, các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P đến nhà bà Trần Thị Thu D, địa chỉ: số nhà 358/7, ấp Thanh Hòa, xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An tìm chị Lê Trần Ph (con bà D) để đòi nợ nhưng không gặp chị Ph, không có người ở nhà, nhà khóa cửa, các bị cáo có hỏi những người hàng xóm để tìm chị Ph nhưng không ai biết chị Ph đi đâu. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo T nói với bị cáo P là tìm cách vào bên trong nhà lấy ti vi để trừ nợ, bị cáo P đồng ý làm theo bị cáo T. Các bị cáo P và T mỗi người một bên cánh cửa dùng tay, chân để kéo, đạp cửa trước (loại cửa kéo được làm bằng kim loại, khoảng 5 phút sau các bị cáo đã tạo được khe hở giữa hai cánh cửa, sát với mặt đất đủ để bị cáo P chui vào bên trong, bị cáo P lấy 01 ti vi nhãn hiệu Sony, màu đen đưa ra ngoài cho bị cáo T, bị cáo P chở bị cáo T cùng ti vi về nhà bị cáo T cất giấu.

Vật chứng trong vụ án: Cơ quan Điều tra thu giữ 01 ti vi nhãn hiệu Sony, màu đen, kích thước màn hình là 40 inch và 01 xe mô tô hai bánh biển số 66M1-054.93, nhãn hiệu Honda, loại AIR BLADE. Cơ quan Điều tra đã trả vật chứng cho chủ sở hữu. Ngoài ra, cơ quan Điều tra thu giữ các vật không phải là vật chứng trong vụ án, gồm: 01 ổ khóa kim loại nhãn hiệu ZSOLEX Pro, 01 vỏ chai nhựa và 01 nắp vỏ chai nhựa keo dán sắt.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 24/KL-HĐĐG ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Long An kết luận: 01 ti vi nhãn hiệu Sony, màu đen 40 inch, model NO.KDL-40W660E, sản xuất tháng 9 năm 2017 có giá trị định giá là 8.400.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSHCT ngày 07 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An truy tố các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P về tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P đã thành khẩn khai báo, thừa nhận vào ngày 10 tháng 9 năm 2018, các bị cáo lén lút vào nhà bà Trần Thị Thu D chiếm đoạt 01 ti vi nhãn hiệu Sony, màu đen, kích thước màn hình là 40 inch với mục đích là trừ nợ đối với chị Lê Trần Ph. Các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P không đập phá các chậu cây cảnh, không đổ keo dán sắt vào ổ khóa nhà bà D.

Bà Trần Thị Thu D đã nhận lại tài sản, đã thỏa thuận bồi thường xong thiệt hại, không yêu cầu bồi thường thiệt hại nào khác, yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét miễn hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P về tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P với mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Các bị cáo không tranh luận với lời luận tội và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị.

Người bị hại không tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 10 tháng 9 năm 2018, các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P lén lút vào nhà bà Trần Thị Thu D chiếm đoạt 01 ti vi nhãn hiệu Sony, màu đen, 40 inch có giá trị là 8.400.000 đồng với mục đích là trừ nợ đối với chị Lê Trần Ph, là các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Long An truy tố các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P với tội danh, điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt nghiêm minh đối với các bị cáo nhằm răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; các bị cáo cố ý cùng thực hiện một tội phạm nhưng không có sự câu kết chặt chẽ nên không xem là phạm tội có tổ chức; nên khi quyết định hình phạt căn cứ Điều 50 của Bộ luật hình sự, cần áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định khung hình phạt phải áp dụng; các điểm h, i và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên cho các bị cáo hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo và không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao các bị cáo về chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú để cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và khoản tiền bồi thường, không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Vật chứng trong vụ án: Cơ quan Điều tra đã trả vật chứng cho chủ sở hữu, không có ai yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Các vật không phải là vật chứng trong vụ án mà cơ quan Điều tra đã thu giữ, gồm: 01 ổ khóa kim loại nhãn hiệu ZSOLEX Pro, 01 vỏ chai nhựa và 01 nắp vỏ chai nhựa keo dán sắt, hiện nay cơ quan Điều tra Công an huyện Châu Thành đang quản lý, đề nghị cơ quan Điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo thẩm quyền.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Long An về trách nhiệm hình sự là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của các bị cáo nên chấp nhận, tuy nhiên các bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, nên Hội đồng xét xử cho các bị cáo hưởng án treo.

[8] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm với số tiền là 200.000 đồng theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các Điều 21, 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 , của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, các điểm h, i và s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Châu Thị Thanh T 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Châu Thị Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã Long Trì, huyện Châu Thành, tỉnh Long An để giám sát, giáo dục bị cáo Châu Thị Thanh T trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Tăng Minh P 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Tăng Minh P cho Ủy ban nhân dân xã Phước Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang để giám sát, giáo dục bị cáo Tăng Minh P trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các Điều 21, 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Châu Thị Thanh T và Tăng Minh P mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm với số tiền là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

3. Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 13/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về