Bản án 04/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 01 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí -  tỉnh  Quảng  Ninh,  xét  xử  sơ  thẩm công  khai   vụ  án  hình  sự  sơ  thẩm thụ  lý  số: 180/2018/TLST- HS ngày 27 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Anh T; sinh ngày: 05/02/1985 tại C– Quảng Ninh.

Nơi ĐKNKTT: Tổ 2, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T và bà Hoàng Thị C (tên gọi khác: A); vợ, con: chưa có; tiền sự: không; tiền án: ngày 24/02/2005, Tòa án nhân dân thị xã U (nay là TP. U), xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 18/12/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị bắt quả tang ngày 12-10-2018, tạm giữ từ ngày 13-10-2018 và tạm giam ngày 19-10-2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1982; địa chỉ: tổ 8, khu7, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Vũ Anh T, sinh năm 1982; địa chỉ: khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 20 phút ngày 12/10/2018, tổ công tác phương án 12- Công an thành phố U, làm nhiệm vụ tại Km 77+800, quốc lộ 18A, phường Y, thành phố U, tiến hành kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 14A-247.xx, đi theo hướng Đông Triều- Hạ Long, do Nguyễn Tuấn A năm 1982, trú tại tổ 8, khu 7, phường T, thành phố U, điều khiển, trên xe chở Nguyễn Anh T, sinh năm 1985, trú tại tổ 2, khu 1, phường Q, thành phố U. Qua kiểm tra thu tại túi quần bên phải phía trước Nguyễn Anh T đang mặc 01 túi nilon màu trắng kích thước (4x6)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tạm giữ của Nguyễn Anh T 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu đen (không sử dụng được) và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đỏ, nhãn hiệu Masstel cùng sim điện thoại  số 0375.492.xxx.

Tại bản giám định số 647/ ngày 15/10/2018, của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể mầu trắng ghi thu của Nguyễn Anh T gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có trọng lƣợng 0,932g.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Anh T khai nhận: Chiều ngày 10/10/2018, T gọi điện thoại cho một thanh niên tên là H, nhà ở phường T, thành phố U, hỏi mua ma túy đá với số tiền 2.000.000đồng; H hẹn gặp T tại cổng trường T- phường Q, thành phố U. Tại đây có 01 người đàn ông không quen biết đi đến hỏi T “chờ anh H à”, T trả lời “ừ” rồi T đưa cho người đàn ông này 2.000.000đồng và nhận từ người đàn ông này 01 túi nilon bên trong có ma túy; T cầm số ma túy về nhà rồi bỏ một phần ra sử dụng, số còn lại cất đi. Khoảng 10 giờ ngày 12/10/2018, T bỏ số ma túy còn lại vào túi quần rồi đi đến nhà bạn tên là H ở tại phường P chơi. Đến 22giờ 10 phút cùng ngày T đón xe taxi Ph, biển kiểm soát 14A-247.xx, do anh Nguyễn Tuấn A điều khiển đi phường T, thành phố U. Khi xe ô tô đi đến Km 77+800, quốc lộ 18A, phường Y, thành phố U, thì bị Công an thành phố U kiểm tra bắt quả tang, thu tại túi quần bên phải phía trước của Nguyễn Anh T 01 túi nilon bên trong chứa chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT – VKSUB ngày 24 -12 -2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Nguyễn Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Trong vụ án này Nguyễn Anh T khai mua ma túy của người thanh niên có tên là H và đưa tiền, nhận ma túy từ một người đàn ông không quen biết nhưng T khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên không làm rõ được đối tượng để xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và thừa nhận bị truy tố đúng người, đúng tội. Về tài sản bị thu giữ bị cáo  khai trong do quá trình điều  tra bị cáo không nhớ nên  đã khai nhận: ngày 10/10/2018, bị cáo dùng chiếc điện thoại Iphone có lắp sim số 0375.493.xxx liên lạc với người thanh niên tên là H để mua ma túy. Ngày hôm sau, bị cáo đã đánh rơi chiếc điện thoại này nên chiếc điện thoại bị vỡ không sử dụng được và bị cáo đã tháo sim số 0375.493.xxx lắp sang chiếc điện thoại Masstel chỉ dùng gọi cho bạn bè và sau khi bị cáo gọi xong xóa hết tất cả các tin nhắn, nhật ký cuộc gọi đến. Tại phiên tòa, bị cáo có lời khai khẳng định chiếc điện thoại Masstel kèm theo sim số 0375.493.xxx (sim không đăng ký chính chủ) là điện thoại bị cáo dùng để liên lạc với người bán ma túy tên là H, còn chiếc điện thoại Iphone bị cáo chỉ mang theo, không dùng để liên lạc với ai vì chiếc điện thoại này đã hỏng.

Người làm chứng anh Nguyễn Tuấn A và người chứng kiến anh Vũ Anh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng các lời khai thể hiện trong hồ sơ đều phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm và vật chứng thu giữ của vụ án (bút lục 35 – 44)

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T với mức hình phạt từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 13-10-2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 – Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 – Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Đối với 01 phong bì số 647/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng ma túy thu giữ của bị cáo, được hoàn lại sau giám định là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy; đối với vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong lắp sim số còn giá trị sử dụng nên tịch thu, phát mại và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã cũ, hỏng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát; Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố U, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về tội danh và hình phạt:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người làm chứng, người chứng kiến và phù hợp với Biên bản khám xét, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng với  các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ 20 phút ngày 12/10/2018, tại Km 77+800, quốc lộ 18A, phường Y, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh , Nguyễn Anh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,932gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác phương án 12- Công an tỉnh Quảng Ninh trong khi làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi cố ý,  hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng định khung “tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, truy tố bị cáo theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật và cần thiết phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm đảm bảo giáo dục riêng cũng như đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung.

 [3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, không có thu nhập ổn định nên quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Đối với vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội gồm: 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 647GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng ma túy được hoàn lại sau giám định thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;  01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel (bị cáo thừa nhận dùng chiếc điện thoại này liên lạc với đối tượng bán ma túy để mua được ma túy và tàng trữ với mục đích sử dụng), còn giá trị sử dụng nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước và  01 sim số 0375.493.xxx bị cáo không đăng ký thông tin chính chủ, không có giá trị, không sử dụng được nên tịch thu, tiêu hủy.

Đối với tài sản thu giữ không liên quan đến hành vi phạm tội: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

 [6] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

 [7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo  Nguyễn Anh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 13/10/2018.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Áp dụng: khoản 1, điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106  Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu, tiêu huỷ: 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định số 647/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 (một) sim số 0375.493.xxx.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel.

+ Trả lại cho bị cáo 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone.  (Tình trạng và đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08 tháng 01 năm 2019 giữa Công an thành phố U và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30- 12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, có mặt bị cáo; báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về