Bản án 04/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thái N, tên gọi khác: N, sinh năm 1993 tại Long An. ĐKTT: Số 115 N,i khu phố 8, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Kim P; bản thân chưa có vợ; Tiền án: Ngày 12/4/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 31/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 28/4/2017; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/8/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 02/4/2010 chấp hành xong; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2018 cho đến nay, có mặt.

2. Nguyễn Văn Chí H, tên gọi khác: Không, sinh năm 1994 tại Camphuchia. ĐKTT: Ấp R, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị T; bản thân có vợ tên Nguyễn Thị Kim N, có 01 người con sinh năm 2014; Tiền án: Ngày 17/7/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 03/02/2016. Ngày 10/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, TPHCM xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 17/01/2018; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2018 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Lê Thanh H, sinh năm 1988

ĐKTT: Ấp 2, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Tạm trú: Nhà trọ B, ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Huỳnh Hữu Đ, sinh năm 1993

ĐKTT: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 27/8/2018, Nguyễn Văn Chí H điều khiển xe mô tô loại Wave màu xanh (không rõ biển số) từ Thành phố Hồ Chí Minh đến huyện Bến Lức gặp Huỳnh Hữu Đ và Nguyễn Thái N tại khu vực Sân vận động huyện B. Sau đó, cả ba đến quán karaoke Năm Sao thuộc khu phố 8, thị trấn B uống bia. Lúc này H ra ngoài rủ N đi tìm tài sản trộm cắp thì N đồng ý nên H giao xe cho N điều khiển chở H ngồi sau chạy lòng vòng tìm tài sản để sơ hở lấy trộm bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 28/8/2018 cả hai đi ngang nhà trọ Ba Tỷ 2 thuộc ấp P, xã T, huyện B. H phát hiện bên trong nhà trọ, trước phòng trọ số 18 do Lê Thanh H thuê trọ, có dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave biển số 51V1-6683, không khóa cổ, đầu xe quay vào trong, không người trông coi nên N dừng xe lại cặp đường cách 10m cảnh giới. H đi bộ đến mở cổng rào, cổng không khóa rồi đi đến chỗ để xe, sử dụng chìa khóa đem theo mở khóa xe, nổ máy chạy theo N về quán karaoke Nam Sao gặp Đức nhậu tiếp. Sau đó, N và H đi đến nhà bạn N, H điều khiển xe biển số 51V1-6683 vừa lấy trộm được, N chạy xe Wave màu xanh (không rõ biển số) của H đến khu vực gần cầu Rạch Chanh thuộc khu phố 8, thị trấn B thì bị lực lượng tuần tra Công an huyện Bến Lức kiểm tra mời H về trụ sở làm việc. N thấy vậy nên điều khiển xe của H chạy đến tiệm game bán cá tại khu phố 8, thị trấn Bến Lức cầm xe cho thanh niên (không rõ nhân thân, địa chỉ) lấy tiền chơi game. Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức không thu hồi được vật chứng. Đến ngày 29/8/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức tiến hành mời N làm việc và N khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 34 ngày 28/8/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Lức định giá 01 xe mô tô biển số 51V1-6683, nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh, số khung HC090947- 323466, số máy HC09E-3023516, trị giá 9.600.000đ.

Tại cáo trạng số 09/CT-VKSBL ngày 19-12-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Nguyễn Thái N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Chí H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thái N, Nguyễn Văn Chí H hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội các bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố các bị cáo Nguyễn Thái N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Chí H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội đúng pháp luật, không oan. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng cho các bị cáo.

Theo lời khai người bị hại anh Lê Thanh H tại Cơ quan điều tra: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 27/8/2018, anh đi làm về và đậu xe trước phòng trọ số 18 nhà trọ B thuộc ấp P, xã T, huyện B. Đến khoảng 01 giờ 30 phút anh nằm trong phòng trọ anh chưa ngủ thì nghe có tiếng động bên ngoài nên mở cửa kiểm tra thì phát hiện bị mất xe mô tô biển số 51V1-6683, nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh nên anh trình báo công an. Sau đó bắt được kẻ trộm và anh đã nhận lại xe bị mất, anh không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự, về trách nhiệm hình sự anh yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo N có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở H, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, do đó cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thái N, Nguyễn Văn Chí H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái N từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Chí H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Do hoàn cảnh gia đình các bị cáo gặp khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức đã thu hồi và giao trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave biển số 51V1-6683 cho bị hại Lê Thanh H, hiện bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên không xét đến.

Về vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Nokia cảm ứng màu đen của bị cáo Nguyễn Văn Chí H, xét thấy bị cáo H không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Chí H sử dụng.  (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang tạm giữ, quản lý).

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu, các bị cáo xác định cáo trạng truy tố các bị cáo là không oan, các bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Bị hại không tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Lức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bản kết luận định giá tài sản, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa nên có đủ cơ sở khẳng định các bị cáo khoảng 01 giờ 30 phút ngày 28/8/2018 Nguyễn Thái N điều khiển xe mô tô không rõ biển số của Nguyễn Văn Chí H, chở H ngồi sau đi tìm tài sản của người dân để sơ hở trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Khi cả hai đi ngang nhà trọ Ba Tỷ 2 thuộc ấp P, xã T, huyện B. H phát hiện trước phòng trọ số 18 do Lê Thanh H thuê trọ, có dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave biển số 51V1-6683, trị giá 9.600.000đ, không người trông coi nên N dừng xe, cảnh giới còn H đi bộ đến chỗ để xe, sử dụng chìa khóa đem theo mở khóa xe, nổ máy chạy đến khu vực gần cầu Rạch Chanh thuộc khu phố 8, thị trấn Bến Lức thì bị lực lượng tuần tra công an huyện Bến Lức phát hiện.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thái N phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Nguyễn Văn Chí H phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, do bị cáo H đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội cho do lỗi cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Xét thấy, hai bị cáo không có bàn bạc, phân công, phân nhiệm cụ thể, không có cấu kết chặt chẽ với nhau nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, do đó Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thái N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Chí H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng pháp luật, không oan.

[3] Hành vi trái pháp luật của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác. Các bị cáo cũng thừa biết tài sản của người khác là do công sức lao động làm ra được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm khi chưa có sự đồng ý của chủ sở hữu. Các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, khi có điều kiện thuận lợi là thực hiện ngay không từ bỏ ý định nào. Hành vi của các bị cáo gây mất trật tự ở địa phương, làm cho nhân dân bất bình, hoang mang, lo sợ. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả của vụ án cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo N có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên xét thấy sau khi phạm tội trong quá trình điều tra cũng như qua thẩm tra công khai tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, hoàn cảnh gia đìnhgặp khó khăn, do đó cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”, do đó các bị cáo Nguyễn Thái N, Nguyễn Văn Chí H có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức đã thu hồi và giao trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave biển số 51V1-6683 cho bị hại Lê Thanh H, hiện anh Hùng đã nhận lại xe và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xét đến.

[6] Về vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Nokia cảm ứng màu đen của bị cáo Nguyễn Văn Chí H, xét thấy bị cáo H không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Chí H sử dụng. (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang tạm giữ, quản lý).

[7] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thái N, Nguyễn Văn Chí H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái N 01 (một) năm tù, thời gian tù tính từ ngày 30-8-2018.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Chí H 02 (hai) năm tù, thời gian tù tính từ ngày 28-8- 2018.

2. Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạmgiam các bị cáo Nguyễn Thái N, Nguyễn Văn Chí H trong thời hạn 45 (bốnmươi lăm) ngày kể từ ngày 15-01-2019 để đảm bảo thi hành án.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Giao trả cho bị cáo Nguyễn Văn Chí H 01 điện thoại di động hiệu Nokia cảm ứng màu đen. (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang tạm giữ, quản lý).

4. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Nguyễn Thái N, Nguyễn Văn Chí H mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về