Bản án 05/20019/ST-HNGĐ ngày 26/04/2019 về ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 05/20019/ST-HNGĐ NGÀY 26/04/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 26 tháng 4 năm 2019 tại Hội trường xét xử dân sự Tòa án nhân dân thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019 về việc ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXX-ST ngày 20 tháng 3 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thuý Đ - sinh năm: 1989.(Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Trần Duy H - sinh năm: 1988. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Cùng cư trú tại, thôn S, xã N, Thành phố H, tỉnh Hà Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/01/2019 và quá trình tố tụng và tại phiên toà hôm nay chị Mai Thuý Đ trình bầy: Chị và anh H kết hôn từ ngày 26/12/2011, có đăng ký tại UBND xã K, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Việc kết hôn là do tự nguyện. Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do không hòa hợp về tính cách, bất đồng quan điểm sống, tình cảm vợ chồng luôn căng thẳng, mải mê chơi bời, bỏ bê công việc, do vậy từ mâu thuẫn nhỏ dần đến mâu thuẫn lớn không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng, bản thân anh H không tu chí làm ăn xây dựng hạnh phúc gia đình, nhiều lần chị và gia đình bố mẹ hai bên đã khuyên can, nhưng anh vẫn không sửa đổi. Do vậy chị thấy không thể duy trì hạnh phúc với anh H được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung anh chị có một con chung là cháu Trần Mai P - sinh ngày 18/6/2013. Sau ly hôn, chị Đ có nguyện vọng được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng, vì hiện nay anh H không có mặt tại địa phương, khi nào anh H về chị sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết vào vụ án khác. Về tài sản chung, công nợ chung chị Đ xác nhận vợ chồng không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Duy H xác nhận, anh vẫn yêu thương chị Đ, việc chị Đ có đơn ly hôn anh đề nghị Tòa án hòa giải cho anh chị về đoàn tụ, nếu ly hôn anh yêu cầu được nuôi con không yêu cầu chị Đ phải cấp dưỡng, trong quá trình giải quyết Tòa án đã tống đạt giấy thông báo phiên hòa giải lần hai về việc nuôi con, nhưng anh H đều không đến và không có ý kiến gì, Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng trên tại nơi anh H cư trú và công tác cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay anh Trần Duy H đều không có mặt và cũng không có ý kiến gì.

Tòa án tiến hành xác minh tại nơi cư trú của anh H ở thôn S, xã N, Thành phố H, tỉnh Hà Giang, cũng như tại cơ quan Bệnh viện y dược cổ truyền tỉnh Hà Giang nơi anh H công tác, nhưng hiện anh H không có mặt tại nơi cư trú cũng như tại cơ quan. Anh H đang ở đâu, làm gì cơ quan không ai nắm được, cơ quan đã thông tin cho anh H và tạo điều kiện cho anh H nghỉ phép để giải quyết việc gia đình tại Tòa án, nhưng anh H đi đâu làm gì anh H không báo cơ quan, do vậy cơ quan không biết việc anh H có đến Tòa án hay không.

Biên bản về việc tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em Phòng Văn hóa và thông tin và phòng LĐTB& XH thành phố H cho biết: về quan hệ hôn nhân của anh H và chị Đ không cải thiện được tình cảm vợ chồng, anh chị đã ly thân, Tòa án căn cứ vào tình hình thực tế của anh chị để giải quyết. Về con chung: hiện anh H bỏ đi đâu không biết và mức thu nhập không ổn định, anh H không có mặt tại địa phương, để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt và học tập tốt nhất của cháu, Tòa xét thấy cần giao cháu P cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu P đến khi đủ 18 tuổi.

Quá trình giải quyết vụ án do anh H không có mặt tại địa phương Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, do vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung theo luật định.

Tại phiên tòa, chị Mai Thúy Đ vẫn giữ nguyên quan điểm của mình là xin ly hôn, nuôi con chung.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H: Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, HĐXX, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tung quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các Điều 56,57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận khởi kiện của chị Mai Thúy Đ về việc xin ly hôn và nuôi con chung với anh Trần Duy H.

- Về án phí: áp dụng Điều 147 BLTTDS; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về Tố tụng:

Tại phiên tòa chị Mai Thuý Đ có mặt, anh Trần Duy H vắng mặt đã được triệu tập hợp lệ lần 2. Xét thấy việc bị đơn anh Trần Duy H vắng mặt là vi phạm pháp luật tố tụng quy định tại khoản 5, 15, 16, Điều 70 BLTTDS, nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 227, 228 tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về Nội dung:

Xét thấy việc chị Mai Thuý Đ xin ly hôn với anh Trần Duy H là hoàn toàn có cơ sở bởi lẽ sau kết hôn được một thời gian cuộc sống sinh hoạt gia đình vợ chồng đã sẩy ra mâu thuẫn, không thể hòa hợp được, bản thân anh H thiếu chăm lo gia đình vợ con, không tu chí làm ăn xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dậy con cái, mâu thuẫn tình cảm vợ chồng của anh chị đã được Tòa án hòa giải cho anh chị quay về đoàn tụ, nhưng cuộc sống tình cảm vợ chồng vẫn không hạnh phúc, mà còn mâu thuẫn trần trọng hơn, anh chị sống thân ai người ấy lo, việc ai người ấy làm, không ai thăm hỏi đến ai. Như vậy tình cảm vợ chồng không có điều kiện để khắc phục. Khi chị Đ có yêu cầu xin ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn, nhưng không có yêu cầu đề nghị và cũng không có ý kiến gì.

Từ những nhận định trên thấy rằng với tình trạng hôn nhân của chị Đ và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Tòa cần áp dụng khoản 1 điều 56 luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Đ được ly hôn với anh H là phù hợp.

Về con chung xét thấy hiện tại cháu Trần Mai P - sinh ngày 18/6/2013 hiện đang ở cùng với chị Đ là thực tế. Việc chị Đ đề nghị ly hôn xin được nuôi cháu Trần Mai P là hợp lý, anh H thường xuyên vắng nhà, hiện nay không biết anh H ở đâu, anh H không có điều kiện, thời gian chăm sóc con cái. Do đó cần xử giao cháu Trần Mai P cho chị Mai Thuý Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung xét việc chị Đ không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi cháu Trần Mai P, anh H hiện không có mặt tại địa phương, nên không tiến hành được việc hòa giải mức cấp dưỡng nuôi con chung. Tòa án đã niên yết các văn bản theo quy định, do vậy việc cấp dưỡng nuôi con chung sẽ giải quyết vào một vụ án khác. Tòa không xem xét là có căn cứ.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Đ xác nhận không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm cần áp dụng khoản 4 điều 147 bộ luật TTDS và điểm a khoản 5 Điều 27 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ quốc Hội , buộc chị Mai Thuý Đ phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56,57, 81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng khoản 4 điều 147 BLTTDS năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Mai Thuý Đ về việc xin hôn. Xử cho chị Mai Thuý Đ được ly hôn anh Trần Duy H.

2. Về con chung:

Xử giao cháu Trần Mai P - sinh ngày 18/6/2013 cho chị Mai Thuý Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Trần Mai P cho đến khi đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi cháu Trần Mai P, anh H được quyền qua lại thăm nom chăm sóc con chung Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung là không cố định.

3.Về tài sản chung, công nợ chung: Anh Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm HNGĐ:

Chị Mai Thuý Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng chẵn) chị Đ đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự thành phố H theo biên lai thu số: 01067, ngày 28/12/2018.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho nguyên đơn có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/20019/ST-HNGĐ ngày 26/04/2019 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:05/20019/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Giang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về