Bản án 05/2018/ HS-ST ngày 06/02/ 2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 05/2018/ HS-ST NGÀY 06/02/ 2018 VỀ TỒI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2018/ TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:01/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Việt H, sinh năm 1989 (tên gọi khác: H con), tại huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn Y, xã Y, huyện N, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Mường;  con ông Bùi Văn M và bà Bùi Thị H; chưa có vợ, con; Tiền sự: Không;

Tiền án:

+ Tại bản án số 11/2007/HSST ngày 10/12/2007 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cao Bằng xử phạt Bùi Việt H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, án phí hình sự 50.000 đồng. Ngày 11/06/2008 Bùi Việt H đã chấp hành xong hình phạt tù và chấp hành xong tiền án phí.

+ Tại bản án số 540/2009/HSST ngày 29/09/2009 của Tòa án nhân dân quận H, TP. Hà Nội xử phạt Bùi Việt H 48 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, án phí hình sự 200.000 đồng. Ngày 19/05/2013 Bùi Việt H đã chấp hành xong hình phạt tù và chấp hành xong tiền án phí.

+ Tại bản án số 18/2014/HSST ngày 25/03/2014 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt Bùi Việt H 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, án phí hình sự 200.000 đồng. Ngày 07/05/2017 Bùi Việt H đã chấp hành xong hình phạt tù và chấp hành xong tiền án phí.

Nhân thân:

+ Ngày 01/04/2006, Chủ tịch UBND huyện N ra Quyết định số 01/QĐ-UB-NC đưa Bùi Việt H vào trường giáo dưỡng trong thời gian 12 tháng. Ngày 01/02/2007, Bùi Việt H đã chấp hành xong.

+ Ngày 10/02/2014, Bùi Việt H bị Công an huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 10/08/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình.  Có mặt.

- Bị hại: Ông Phạm Như C, sinh năm 1958. Vắng mặt

Nơi cư trú : Thôn P, xã Đ, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người Làm chứng :

1. Anh Vũ Văn H, sinh năm 1989. Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Có mặt

2. Anh Lê Thế H, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình . Vắng mặt

3. Anh Vũ Văn H 1, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 03/07/2017, Bùi Việt H đi bộ từ nhà đến nhà Vũ Văn H ở thôn P, xã Đ, huyện N chơi và rủ H đi mua ma túy về sử dụng. H đã mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave BKS 35B1-048.39 của anh Vũ Văn H 1 ở thôn L, xã Đ rồi chở Bùi Việt H đi đến hiệu thuốc tân dược của ông Phạm Như C ở thôn P, xã Đ để mua xi lanh. Khi đến nơi, Vũ Văn H dừng xe đợi ở ngoài đường còn Bùi Việt H đi bộ vào hiệu thuốc của ông C. Lúc này nhà ông C không có người ở quầy bán thuốc, Bùi Việt H gọi nhưng không ai trả lời. Bùi Việt H quan sát thấy phía dưới tủ thuốc có để 01 hòm tôn không có khóa nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nhà ông C. Bùi Việt H đi đến chỗ hòm tôn và dùng tay phải mở nắp hòm tôn ra thì thấy bên trong có nhiều tiền gồm các mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, Bùi Việt H đã lấy tổng số tiền 1.200.000 đồng của ông C để trong hòm tôn rồi đi ra chỗ Vũ Văn H đang đứng chờ, H chở H đi về. Trên đường đi, Bùi Việt H lấy 400.000 đồng đưa cho H đi mua ma túy nhưng H không mua được nên đã trả lại số tiền 400.000 đồng cho Bùi Việt H. Sau khi chiếm đoạt được số tiền 1.200.000 đồng của ông C, Bùi Việt H đã tiêu xài hết.

Bị cáo Bùi Việt H chưa trả lại số tiền 1.200.000 đồng đã chiếm đoạt của ông Phạm Như C. Ông C yêu cầu Bùi Việt H trả lại cho ông số tiền này.

Tại Bản cáo trạng  số 01/CT-VKS  ngày 08 tháng 01 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố: Bùi Việt H ra trước Tòa án nhân dân huyện N để xét xử về tội  “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng Điều 138, khoản 1 Bộ luật hình sự 1999 .

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Việt H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng Điều 138 khoản 1; điểm p, khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo: Bùi Việt H từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày10/08/2017. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 584,585,586,589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Bùi Việt H trả lại cho ông Phạm Như C 1.200.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]  Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện N đã nghiên cứu hồ sơ ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt cho bị cáo và những người tham gia tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố:

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Việt H khai : Khoảng 13 giờ ngày 03/07/2017, Bùi Việt H đến nhà Vũ Văn H chơi và rủ H đi mua ma túy về sử dụng. H đã mượn xe mô tô của anh Vũ Văn H 1 rồi chở H đi đến hiệu thuốc tân dược của ông Phạm Như C để mua xi lanh. Khi đến nơi, H dừng xe đợi ở ngoài đường còn H vào hiệu thuốc của ông C. Do khi đó không có người coi và bán hàng, nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nhà ông C. Bùi Việt H đã mở nắp hòm tôn ra thì thấy bên trong có nhiều tiền gồm các mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, Bùi Việt H đã lấy tổng số tiền 1.200.000 đồng của ông C để trong hòm tôn rồi đi ra chỗ Vũ Văn H đang đứng chờ, H chở H đi về. Trên đường đi, Bùi Việt H lấy 400.000 đồng đưa cho H đi mua ma túy (H không nói cho H biết đó tiền trộm cắp) nhưng do H không mua được ma túy nên đã trả lại số tiền 400.000 đồng cho Bùi Việt H. Sau khi chiếm đoạt được số tiền 1.200.000 đồng của ông C, Bùi Việt H đã tiêu xài hết.

[3] Nhận định của Hội đồng xét xử: Lời khai của bị cáo Bùi Việt H tại phiên toà phù hợp với Cáo trạng, lời khai của người bị hại, những người làm chứng và các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Bùi Việt H là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Tại bản án số 11/2007/HSST ngày 10/12/2007 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cao Bằng xử phạt Bùi Việt H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án số 18/2014/HSST ngày 25/03/2014 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt Bùi Việt H 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, Tại bản án số 540/2009/HSST ngày 29/09/2009 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt Bùi Việt H 48 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 03/7/2017, H thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với số tiền 1.200.000 đồng của ông C, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ là phạm tội“Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 như Bản cáo trạng đã viện dẫn để truy tố là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật .

Bùi Việt H có nhân thân không tốt, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo và góp phần đấu tranh, phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo H một phần hình phạt vì bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại phạm vì đã sử dụng làm căn cứ để định tội đối với bị cáo

Đối với Vũ Văn H là người đã sử dụng xe mô tô chở Bùi Việt H đến cửa hàng thuốc nhà ông Phạm Như C. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định H không biết H đi trộm cắp tài sản. Do vậy, Viện kiểm sát không truy tố Vũ Văn H trong vụ án này là đúng pháp luật.

Đối với anh Vũ Văn H 1 là người cho Vũ Văn H mượn xe mô tô để chở Bùi Việt H. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định anh Hòa không biết Bùi Việt H đi trộm cắp tài sản. Do vậy, Viện kiểm sát không truy tố Vũ Văn H 1 trong vụ án này là đúng pháp luật .

[4] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử  thấy cần buộc bị cáo Bùi Việt H trả lại 1.200.000 đồng đã chiếm đoạt cho ông Phạm Như C theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[5] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào : Khoản 1 Điều 138;  điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 42 của Bộ luật hình sự năm 1999; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự.

Căn cứ vào: Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Việt H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Bùi Việt H 12 (mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngay bị bắt tạm giam:  10/08/2017.

2 . Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Bùi Việt H trả lại cho ông Phạm Như C 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Việt H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn đồng) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/ HS-ST ngày 06/02/ 2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về