Bản án 05/2018/HS-PT ngày 30/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 05/2018/HS-PT NGÀY 30/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 09/2018/TLPT-HS ngày 07 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo Lù Văn T do có kháng cáo của bị cáo Lù Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số:10/2018/HS-ST ngày 05 tháng 02 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện SH, tỉnh Lai Châu.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: LÙ VĂN TRÂN - sinh năm: 1995, tại Sìn Hồ, Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản TP, xã NH, huyện SH, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lù Văn G và bà Lù Thị H; có vợ Lò Thị T, bị cáo chưa có con; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: là người nghiện chất ma túy; tạm giữ, tạm giam ngày 30/9/2017.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ ngày 29 tháng 9 năm 2017, Lù Văn Trân một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave RSX màu trắng - xám đen, biển kiểm soát 25T1 – 030.01 từ nhà của gia đình anh Lò Văn N là anh rể của T đến xã PK, huyện SH, tỉnh Lai Châu để tìm mua Hêrôin về sử dụng. Khi đi đến nghĩa địa thuộc khu vực bản PP, xã PK, huyện SH, tỉnh Lai Châu thì T gặp một người phụ nữ dân tộc Thái, khoảng 28 đến 29 tuổi (T không biết tên, địa chỉ) đang cắt cỏ bên đường và gọi T. T dừng xe lại thì người phụ nữ này hỏi T có mua Hêrôin không. T trả lời là có, T đưa cho người phụ nữ này 100.000 đồng, người phụ nữ cầm tiền rồi vào bụi cây gần đó lấy ra một gói Hêrôin được gói ngoài bằng gói nilon màu hồng đưa cho T. T cầm Hêrôin cất giấu vào túi quần bên trái rồi điều khiển xe máy đi tiếp. Khi đi đến đ ập nước thuộc khu vực bản HQ 1, xã PK, huyện SH, T dừng xe lại, dựng xe bên lề đường, đi bộ đến một bụi cây cách chỗ dựng xe khoảng 10 mét để sử dụng Hêrôin. Tại đây, T thấy dưới đất có nhiều bơm, kim tiêu, T nhặt một chiếc rồi cho toàn bộ số Hêrôin vừa mua được vào bên trong bơm, kim tiêm trên tay, chưa kịp lấy nước cho vào thì bị Công an huyện SH, tỉnh Lai Châu phát hiện. Sau khi bị phát hiện, T liền ném bơm, kim tiêm vào bụi cây cách chỗ T đứng khoảng 3,5 mét rồi bỏ chạy. Sau đó T bị bắt giữ và tự nhặt chiếc bơm, kim tiêm bên trong có Hêrôin mà T vừa vứt giao nộp cho Công an huyện SH.

Tại kết luận giám định số 411/GĐ-KTH ngày 12/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lù Văn T có trọng lượng 0,20 gam Hêrôin.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử phạt bị cáo Lù Văn T 01(một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn từ tính từ ngày 30/9/2017. Ngoài ra tòa sơ thẩm còn miễn hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tuyên án phí, quyền kháng cáo của bị cáo.

Trong vụ án này còn có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị và không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.Đến ngày 09/02/2018,bị cáo có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện SH với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 332, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo về hình thức; áp dụng Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về nội dung kháng cáo và giữ nguyên bán án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lù Văn T đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện SH và bản án sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện SH, tỉnh Lai Châu.Như vậy có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 29/9/2017 bị cáo có mua của một người phụ nữ  dân tộc Thái (không rõ tên, địa chỉ) một gói Hêrôin có trọng lượng 0,20 gam. Khi bị cáo chuẩn bị sử dụng Hêrôin (chích) thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang. Tòa án câp sơ thẩm đã quyết định về tội danh và mức hình phạt đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ pháp luật, không oan sai.

[2] Xem xét đơn kháng cáo của bị cáo, cấp phúc thẩm thấy rằng: Bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song do bản thân là người nghiện ma túy, không tự kiềm chế được cơn nghiện nên bị cáo đã mua ma túy về với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo với nội dung: “Xin giảm nhẹ hình phạt” nhưng bị cáo không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác, Hội đồng xét xử thấy rằng không có căn cứ để
chấp nhận nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2017/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 361 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. [1] Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lù Văn T và giữ nguyên bản án sơ thẩm số10/2018/HSST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện SH, tỉnh Lai Châu, cụ thể: Áp dụng áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử phạt bị cáo Lù Văn T 01(một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn từ tính từ ngày 30/9/2017.

[2] Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14, bị cáo Lù Văn T phải chịu 200.000VNĐ án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án hình sự sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện SH, tỉnh Lai Châu không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 30/3/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-PT ngày 30/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về