Bản án 05/2018/HSST ngày 06/02/2018 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T L1 - TỈNH H N1

BẢN ÁN 05/2018/HSST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T L1, tỉnh H N1, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/HSST-QĐXXST- HS ngày 26/01/2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T1, sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn C1, xã L C1, huyện T L1, tỉnh H N1; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T2 và bà Nguyễn Thị H1; vợ, con: Chưa có; T9 án, T9 sự: Không. Bị cáo bị bắt truy nã và tạm giữ ngày 30/11/2017 đến ngày 03/12/2017 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T L1; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đào Văn T3 - sinh năm 1980; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn Đ1, xã L S1, huyện T L1, tỉnh H N1; vắng mặt.

2. Anh Trần Mạnh T4 - sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn T5, xã Đ V1, huyện Y D1, tỉnh B G1; có mặt.

3. Anh Lê Mạnh H2 - sinh năm 1991; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn T6, xã L T1, T8 phố P L1, tỉnh H N1; vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Đình Đ2 - sinh năm 1971; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn Q T1, xã T H1, huyện T L1, tỉnh H N1; có đơn xin xử vắng mặt.

5. Anh Vũ Mạnh H3 - sinh năm 1983; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn Đ1, xã L S1, huyện T L1, tỉnh H N1; có mặt.

6. Anh Phạm Mạnh T7 - sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn A H1, xã T H1, huyện T L1, tỉnh H N1; có đơn xin xử vắng mặt.

7. Anh Đinh Tiến T8 - sinh năm 1990; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn T6, xã L T1, T8 phố P L1, tỉnh H N1; vắng mặt.

8. Anh Hoàng Văn N1 - sinh năm 1985; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn Đ B1, xã T Q1, huyện Y S1, tỉnh T Q1; có mặt.

9. Anh Nguyễn Văn N2 - sinh năm 1978; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay: Cụm 7, thôn N X1, xã N X2, huyện T T1, thành phố Hà Nội; có mặt.

10. Anh Lại Công L1 - sinh năm 1978; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay: Tổ 11 phường L H P1, thành phố P L1, tỉnh H N1; có mặt.

11. Anh Nguyễn Khắc T9 - sinh năm 1972; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay: Thôn N T1, xã T B1, huyện T L1, tỉnh H N1; có mặt.

12. Anh Lê Tiến L2 - sinh năm 1985; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn T6, xã L T1, T8 phố P L1, tỉnh H N1; vắng mặt.

13. Anh Đinh Thế Đ3 - sinh năm 1986; nơi ĐKHKTT và cư trú hiện nay:

Thôn T6, xã L T1, T8 phố P L1, tỉnh H N1; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18/6/2017, sau khi ăn uống tại nhà Đào Văn T3 ở thôn Đ1, xã L S1, huyện T L1, tỉnh H N1, các đối tượng Hoàng Văn N1, Nguyễn Văn N2, Đinh Tiến T8, Trần Mạnh T4 và Đào Văn T3 rủ nhau vào phòng ngủ nhà T3 đánh bạc ăn tiền dưới hình thức xóc đĩa, cả bọn đồng ý. T3 đưa kéo cho T4 cắt 04 quân vị từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long (loại vỏ cứng). Sau khi cắt xong, T4 lấy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ ở nhà T3 rồi cho 04 quân vị vào và ngồi xuống chăn nỉ xóc cái cho mọi người chơi. T3 tiếp tục ra uống rượu và dọn dẹp bát đĩa ở gian nhà bên cạnh.

Quá trình đánh bạc, các đối tượng quy định và thống nhất chơi dưới hình thức xóc đĩa, sử dụng một bát sứ, một đĩa sứ và bốn quân vị hình tròn đường kính khoảng 1cm, có một mặt màu vàng và một mặt màu trắng cắt từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Người cầm cái cho bốn quân vị vào chiếc đĩa, úp chiếc bát lên và xóc. Có hai cửa “Chẵn” và “Lẻ” cho người chơi đặt tiền, cửa “Chẵn” phía bên tay phải người xóc cái, cửa “Lẻ” phía bên tay trái người xóc cái qua chỗ đặt dụng cụ đánh bạc (bát, đĩa). Sau khi xóc cái xong, người chơi đặt tiền vào cửa theo ý muốn của mình. Mỗi ván, người chơi đặt cửa thấp nhất 50.000 đồng, không quy định mức đánh cao nhất. Khi mở bát ra mà có một quân vị màu vàng, ba quân màu trắng hoặc ngược lại thì gọi là “Lẻ”, nếu có hai quân vị màu trắng, hai quân vị màu vàng hoặc bốn quân vị cùng màu thì gọi là “Chẵn”. Nếu người chơi đặt tiền đúng cửa mà các quân vị hiển thị thì được số tiền bằng số tiền mình đặt cửa, nếu không đúng như quân vị hiển thị sẽ mất số tiền đã đặt. Sau khi quy định xong, T4 là người trực tiếp xóc cái để các đối tượng cùng chơi. Khi các đối tượng đang đánh bạc thì Phạm Mạnh T7, Nguyễn Khắc T9, Vũ Mạnh H3, Lại Công L1, Nguyễn Đình Đ2, Lê Tiến L2 vào tham gia đánh bạc cùng. Quá trình chơi, nếu có ván nào lên “Tứ tử” (tức là 04 quân vị cùng màu) thì có mỗi người chơi phải bỏ ra 100.000 đồng để đưa cho Đào Văn T3 (chủ nhà). Khi T4 xóc cái thì có 01 ván lên tứ tử, các đối tượng T7, T9, L2, N1, N2 mỗi người bỏ ra 100.000 đồng để dưới chiếu bạc cho T3, riêng L1 không bỏ vì hết tiền. Sau khi dọn dẹp bát đũa xong, T3 đi vào phòng ngủ nơi mọi người đang đánh bạc đứng xem một lúc thì T4 đưa cho T3 100.000 đồng và nói trả tiền bát vỡ. T3 nhận tiền của T4 và tham gia vào đánh bạc cùng các đối tượng. Một lúc sau, T4 đưa tiếp cho T3 100.000 đồng và T3 dùng số tiền này đánh bạc nhưng đều bị thua. Sau đó, T3 không chơi nữa và đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, T3 quay lại nơi các đối tượng đánh bạc thì T4 đưa cho T3 300.000 đồng và nói: “Anh đừng chơi nữa, để bọn em chơi”, T3 cầm tiền rồi đi ra ngoài. Các đối tượng đánh bạc được khoảng 30 phút thì T7, L2, T9, H3, L1, Đ2 lần lượt về trước. Một lúc sau, Nguyễn Văn T1, Đinh Thế Đ3, Lê Mạnh H2 đến nhà T3 chơi và tham gia đánh bạc. Lúc này T4 không xóc cái nữa mà chuyển lại cho H2 xóc cái. T1 tham gia đánh bạc được một lúc thì bỏ về trước. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị lực lượng Công an huyện T L1 phối hợp Công an xã L S1 phát hiện, bắt quả tang. Nguyễn Văn T1 bỏ trốn và bị bắt truy nã vào ngày 30/11/2017.

* Vật chứng, tài sản thu giữ:

- Thu trên chiếu bạc: 01 đệm nỉ có hoa văn màu đỏ KT (150 x 190)cm; số tiền 11.430.000 đồng; 01 bát sứ màu trắng đường kính 12cm, 01 đĩa sứ màu trắng đường kính 18cm; 04 quân vị hình tròn cắt từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng, có đường kính khoảng 1cm.

- Thu giữ trên người các đối tượng: Đào Văn T3 số tiền 400.000 đồng; Đinh Thế Đ3 01 điện thoại di động Iphone 6 màu đen; Nguyễn Văn N2 01 điện thoại Samsung J7 màu trắng; Hoàng Văn N1 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen; Lê Mạnh H2 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng; Trần Mạnh T4 01 điện thoại di động Samsung J5 màu đen; Đinh Tiến T8 01 điện thoại di động Samsung A7 màu vàng.

- Khám xét nhà ở Đào Văn T3 thu giữ: 01 kéo bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ;

Cơ quan điều tra chứng minh ngoài số tiền 11.430.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc, số tiền 400.000 đồng thu giữ trên người Đào Văn T3 có nguồn gốc: T4 đưa cho T3 300.000 đồng, còn 100.000 đồng là của T3 sử dụng vào mục đích đánh bạc. Như vậy, tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc và gá bạc là 11.830.000 đồng.

Ngày 25/10/2017, Tòa án nhân dân huyện T L1 đã mở phiên tòa xét xử đối với Đào Văn T3 về tội “Gá bạc” và tội “Đánh bạc”; Trần Mạnh T4, Lê Mạnh H2, Nguyễn Đình Đ2, Vũ Mạnh H3, Phạm Mạnh T7, Đinh Tiến T8, Hoàng Văn N1, Nguyễn Văn N2, Lại Công L1, Nguyễn Khắc T9, Lê Tiến L2, Đinh Thế Đ3 về tội "Đánh bạc". Bản án đã quyết định hình phạt, xử lý vật chứng, án phí và các vấn đề khác trong vụ án.

Bản cáo trạng số 06/KSĐT ngày 10/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T L1 đã truy tố Nguyễn Văn T1 về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự năm 1999;

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T L1 giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”; Áp dụng khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999; điều 17; điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn T1 từ 03 đến 06 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và đề nghị xử lý vật chứng vụ án

Bị cáo Nguyễn Văn T1 thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và có ý kiến xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
 
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh L1 tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
 
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T L1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T L1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
 
[2] Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết L1:
 
Trong khoảng thời gian từ 12 giờ 30 phút đến 16 giờ 30 phút ngày 18/6/2017, với mục đích trục lợi từ các con bạc, Đào Văn T3 đã dùng nhà ở của mình tại thôn Đ1, xã L S1, huyện T L1, tỉnh H N1 để cho các đối tượng Trần Mạnh T4, Lê Mạnh H2, Nguyễn Đình Đ2, Vũ Mạnh H3, Phạm Mạnh T7, Đinh Tiến T8, Hoàng Văn N1, Nguyễn Văn N2, Lại Công L1, Nguyễn Khắc T9, Lê Tiến L2, Đinh Thế Đ3, Nguyễn Văn T1 đánh bạc dưới hình thức chơi “xóc đĩa”. Quá trình điều tra đã chứng minh tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc, gá bạc là 11.830.000 đồng.
 
[3] Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất an ninh trật tự địa phương, đã phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự năm 1999. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T L1 truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
 
Xét về nhân thân các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
 
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
 
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn T2 là người có công được nhà nước tặng thưởng Huy chương giải phóng, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
 
[4] Đánh giá về nhân thân, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi phạm tội Nguyễn Văn T1 đã không ý thức được sai phạm của mình mà bỏ trốn khỏi địa phương, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử đối với người có hành vi phạm tội. Vì vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm, nên áp dụng mức hình phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp.
 
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có H2 cảnh gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
 
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại Nokia và số tiền 25.000đ đã thu giữ xác định không liên quan đến vụ án, xem xét trả lại cho bị cáo.
 
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
 
Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã có hành vi gá bạc và đánh bạc cùng Nguyễn Văn T1 ngày 18/6/2017 đã bị tòa án xét xử ngày 25/10/2017, nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.
 
Vì các lẽ trên,
 
QUYẾT ĐỊNH
 
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”.
 
- Áp dụng khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999; điều 17; điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
 
- Xử phạt Nguyễn Văn T1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 30/11/2017.
 
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
 
Trả lại cho Nguyễn Văn T1 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 25.000đ (Hai mươi lăm nghìn đồng), nhưng tiếp tục tạm giữ tài sản đã tuyên trả cho bị cáo để đảm bảo thi hành án dân sự).
 
(Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/01/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T L1 với Chi cục Thi hành án dân sự huyện T L1 và Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số 01 lập ngày 11/01/2018 tại Kho bạc Nhà nước huyện T L1).
 
3. Án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
 
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
 
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

618
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HSST ngày 06/02/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:05/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về