Bản án 05/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 17/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 17 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2017/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2017/HSST-QĐ ngày 28 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Dương Tôn H (Tên gọi khác: TN), sinh ngày 03 tháng 4 năm 1992 tại tỉnh Bình Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn HL, xã HN, huyện B, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở hiện nay: Thôn KL, xã PS, huyện B, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không học; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Mộc S (Đã chết) và bà Phạm Thị P; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 09/10/2017, có mặt.

2. Phạm Thị P (Tên gọi khác: G), sinh năm 1969 tại tỉnh Bình Thuận. Nơi cư trú: Thôn HL, xã HN, huyện B, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: Không học; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm B (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Q (Đã chết); bị cáo có chồng là Dương Mộc S (Đã chết) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 25/8/2017, ngày 31/8/2017 chuyển tạm giam đến ngày 09/10/2017 được tại ngoại, có mặt.

-Người tham gia tố tụng khác:

+Người làm chứng:

1. Anh Hồ Duy P, sinh năm 1983; (Vắng mặt)

2. Anh Phạm T, sinh năm 1980; (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ, ngày 25/8/2017, Dương Tôn H là người nghiện ma túy đã đưa cho bà Phạm Thị P (là mẹ ruột của Dương Tôn H) số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và nhờ bà P đi gặp người tên H1 để mua ma túy cho Dương Tôn H sử dụng. Đến khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, Phạm Thị P điều khiển xe mô tô biển số 72F3-8500 của một người tên D (là người ở thành phố Hồ Chí Minh đến xã PS lưu trú) đến khu vực CC thuộc xã PL, huyện B gọi điện thoại cho người tên H1 (không rõ lai lịch) để mua ma túy theo yêu cầu của Dương Tôn H. Khi H1 và một thanh niên (không rõ lai lịch) đến giao cho Phạm Thị P 10 đoạn ống nhựa bên trong có chứa ma túy và nhận số tiền 1.000.000 đồng từ Phạm Thị P xong thì hai người thanh niên bỏ đi. Phạm Thị P nhận 10 đoạn ống nhựa chứa ma túy bỏ vào túi xách mang theo, chuẩn bị đi về thì bị Công an huyện Bắc Bình phối hợp với Công an xã Phan Lâm kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ 03 đoạn ống nhựa màu xanh, 07 đoạn ống nhựa màu cam, được hàn kín hai đầu, bên trong có chất bột màu trắng dạng rắn. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu nho, biển số 72F3-8500, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ-đen, số Imel 352357/06/439321/6 cùng sim số 0988432960, 01 giỏ xách bằng vải màu xanh.

Kết luận giám định số 566/KLGĐ-PC54, ngày 29/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận, kết luận: Chất màu trắng dạng rắn được chứa trong 10 đoạn ống nhựa (03 đoạn màu xanh, 07 đoạn màu trắng) có khối lượng 0,1891 gam, là loại Heroin.

Tại Bản Cáo trạng số 77/QĐ/KSĐT/VKS-HS, ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình đã truy tố Dương Tôn H và Phạm Thị P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Tôn H và bị cáo Phạm Thị P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình đã truy tố, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, việc truy tố, xét xử các bị cáo là không oan.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Dương Tôn H từ 02 (Hai) năm đến 03 (Ba) năm tù;

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Thị P từ 12 (Mười hai) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù.

Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 03 đoạn ống nhựa màu xanh và 07 đoạn ống nhựa màu cam đã cắt lấy mẫu và 0,1356 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 566; tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ-đen bên trong có 01 sim số 0988432960 và 01 giỏ xách màu xanh.

Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án, buộc bị cáo Dương Tôn H và bị cáo Phạm Thị P, mỗi bị cáo phải nhộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Dương Tôn H và Phạm Thị P không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Dương Tôn H và Phạm Thị P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã làm rõ: Vào khoảng 09 giờ ngày 25/8/2017, bị cáo Dương Tôn H là người nghiện ma túy đã gây áp lực, yêu cầu mẹ ruột là bị cáo Phạm Thị P nhận số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo Dương Tôn H để đi mua giùm ma túy cho bị cáo Dương Tôn H sử dụng. Vào khoảng 15 giờ 10 phút, ngày 25/8/2017, bị cáo Phạm Thị P đến khu vực CC, xã PL mua 10 tép ma túy với giá 1.000.000 đồng của hai thanh niên không rõ lai lịch cho bị cáo Dương Tôn H thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi xách của bị cáo Phạm Thị P 10 đoạn ống nhựa bên trong chứa ma túy có khối lượng 0,1891 gam, loại Heroin. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Dương Tôn H và bị cáo Phạm Thị P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (nay là điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015) như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo Dương Tôn H và bị cáo Phạm Thị P đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, không những ảnh hưởng xấu đến tinh thần và sức khỏe của người sử dụng, làm suy giảm sức lao động, làm đảo lộn sinh hoạt trong đời sống gia đình, mà còn là nguyên nhân của các loại tội phạm khác nhưng để thỏa mãn cho nhu cầu sử dụng của bị cáo Dương Tôn H mà các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi trái pháp luật. Hành vi của các bị cáo là tiếp tay cho các tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân tại địa phương nên cần thiết phải xử lý các bị cáo một mức án nghiêm khắc để răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Trong vụ án này, bị cáo Dương Tôn H là người nghiện ma túy, đã gây áp lực và đưa tiền cho mẹ ruột là bị cáo Phạm Thị P để mua ma túy cho bị cáo Dương Tôn H sử dụng. Bị cáo Phạm Thị P vì thương con mù quáng nên đã thực hiện theo yêu cầu của bị cáo Dương Tôn H. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất và mức độ do hành vi của các bị cáo gây ra.

[5] Sau khi phạm tội và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Đối với bị cáo Phạm Thị P, là mẹ đơn thân, thực hiện hành vi phạm tội vì thương con; sau khi phạm tội, bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án nên sẽ được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Do bị cáo Phạm Thị P có hai tình tiết giảm nhẹ chính, nhiều tình tiết giảm nhẹ khác, cũng như tạo điều kiện cho bị cáo điều trị bệnh nên để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo Phạm Thị P được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương quản lý giáo dục.

[6] Về vật chứng trong vụ án: Tịch thu tiêu hủy 03 đoạn ống nhựa màu xanh, 07 đoạn ống nhựa màu cam đã cắt lấy mẫu và 0,1356 gam mẫu vật còn lại sau giám định  được niêm phong trong phong bì số 566, là chất nhà nước cấm lưu hành; tịch thu sung quỹ 01 điện  thoại  di động hiệu Nokia màu đỏ-đen, số Imel 352357/06/439321/6, bên trong có 01 sim số 0988432960 và 01 giỏ xách màu xanh, là phương tiện, công cụ dùng vào việc phạm tội.

[7] Đối với xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 72F3-8500 (giấy đăng ký xe tên Nguyễn Văn C), do chủ xe hiện nay là người tên D không có mặt tại xã PS, nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh là đúng quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo Dương Tôn H và Phạm Thị P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Dương Tôn H và bị cáo Phạm Thị P cùng phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Dương Tôn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09 tháng 10 năm 2017.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị P 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (Ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án (17-01-2018).

Giao bị cáo Phạm Thị P cho Ủy ban nhân dân xã HN, huyện B, tỉnh Bình Thuận giám sát và giáo dục. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

+Tịch thu tiêu hủy 03 đoạn ống nhựa màu xanh, 07 đoạn ống nhựa màu cam đã cắt lấy mẫu và 0,1356 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 566;

+Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ-đen, số Imel 352357/06/439321/6, bên trong có 01 sim số 0988432960 và 01 giỏ xách màu xanh. (Tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Bình, ngày 28/11/2017).

Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án. Buộc bị cáo Dương Tôn H và bị cáo Phạm Thị P, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/01/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về