Bản án 05/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 14/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 156/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Thanh T; Sinh ngày: 19/8/1991, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 70 đường Cù Lao Nguyễn Kiệu, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Hữu Ân, sinh năm 1966 và bà Cổ Thị Phương Oanh, sinh năm 1973; có vợ là: Nguyễn Thị Hồng Phượng, sinh năm: 1992; có 02 con sinh năm 2017; Tiền án: Ngày 17/11/2015, bị Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản", chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/8/2016; Tiền sự: Ngày 30/10/2018, bị Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng; Bị bắt, tạm giam ngày: 20/11/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Phạm Thị Kim Quyên, sinh năm: 1987 (có mặt)

Địa chỉ: 2E/19/2 Đường 970, Tổ 5, Khu phố 4, phường P, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ 30 phút ngày 25/5/2018, Trần Thanh T đi bộ ngang qua nhà số 2E/19/2 Đường 970, Khu phố 4, phường P, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Phạm Văn Tiết làm chủ, thấy nhà còn để đèn sáng, T đi đến cổng sau nhà quan sát thấy cổng có chốt cửa nhưng không khóa, nhìn vào trong phòng bếp không khóa cửa, trong bếp có để xe mô tô hiệu Honda Lead biển số 59B1- 281.63 của chị Phạm Thị Kim Quyên, trên xe còn để chìa khóa ở ổ công tắc. T leo cửa rào vào mở cổng, rồi vào bếp lén lút đẩy xe mô tô trên ra ngoài, đề máy chạy đi. T điều khiển xe đến đường Kinh Dương Vương, Phường M, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) được 6.500.000 đồng và tiêu xài hết.

Khong 22 giờ 10 phút ngày 11/6/2018, Công an phường P, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên đưa T về cơ quan làm việc. Trong quá trình làm việc, Trần Thanh T đã khai nhận việc trộm cắp tài sản của chị Phạm Thị Kim Quyên. Đến ngày 20/11/2018, Trần Thanh T bị bắt giữ.

Kết luận định giá tài sản số 81-2018/KL-ĐGTS ngày 03/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân Quận C kết luận: xe mô tô hiệu Honda Lead biển số 59B1-281.63 có giá trị còn lại là: 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng.

Cáo trạng số 06/CT-VKSQ9 ngày 13/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác phản ánh trong hồ sơ vụ án. Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị còn lại của xe là 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng. Trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng nhưng do gia đình khó khăn, bị cáo phải chấp hành án nên đề nghị được trả dần cho bị hại. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội trộm cắp tài sản. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. Buộc bị cáo Trần Thanh T bồi thường cho bà Phạm Thị Kim Quyên số tiền 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng. Thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận C, của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân Quận C trong quá trình điều tra truy tố là thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo, người bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trần Thanh T đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại là bà Phạm Thị Kim Quyên để lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda Lead biển số 59B1-281.63 bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Tài sản chiếm đoạt được Hội đồng định giá tài sản – Ủy ban nhân dân Quận C xác định có giá trị còn lại là: 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng. Hành vi này của Trần Thanh T là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự quy định là hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…”

[3] Xét khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm. Nhưng xuất phát từ ý thức xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tước đoạt quyền sở hữu tài sản của người khác làm tài sản riêng cho mình. Hội đồng xét xử xét thấy cần xét xử bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 để ấn định hình phạt nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem đây là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Xét tính chất nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo, xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét nhân thân bị cáo và khả năng tự cải tạo giáo dục của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục được bị cáo.

[5] Về vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Honda Lead biển số 59B1-281.63 qua xác minh do Phạm Thị Kim Quyên đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận C không thu hồi được vật chứng nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Phạm Thị Kim Quyên yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị còn lại của chiếc xe là 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng. Xét thấy, giá trị bị hại yêu cầu phù hợp với giá trị tại kết luận định giá tài sản số 81-2018/KL-ĐGTS ngày 03/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân Quận C; đồng thời tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu bồi thường của bị hại.

[7] Án phí hình sự và dân sự sơ thẩm, bị cáo chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 20/11/2018.

2. Áp dụng khoản 1 Điều Bộ 48 luật hình sự;

Buộc bị cáo Trần Thanh T bồi thường cho bà Phạm Thị Kim Quyên số tiền 27.300.000 (hai mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng. Thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp bị cáo chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì bị cáo phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 1.365.000 (một triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn) đồng.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về