Bản án 05/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Quang T; Sinh ngày: 03/6/1982; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 188 đường NS, phường PTH, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Chở hàng thuê; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Hoàng T1 và bà: Nguyễn Thị L (chết); Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 10/10/2018. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Đặng Văn N; Sinh năm: 1952; Thường trú: 165I khu A (số mới: 397C đường TBT), Phường A, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 14/51 đường TPP, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Thiện T2; Sinh năm: 1975; Trú tại: 211 đường QĐB, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh.(vắng mặt)

3. Ông Lê Văn T; Sinh năm: 1971; Thường trú: 177 đường TL, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 10/10/2018, Công an Phường N, Quận 6 phát hiện Bùi Quang T đang điều khiển xe gắn máy biển số 51U5-2045 chạy đến trước nhà số 299A đường THĐ, Phường N, Quận F có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của T 01 cái ví màu đen bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (T khai đó là ma túy đá), nên đã giao T cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Quang T khai: Do nghiện ma túy tổng hợp (ma túy đá), nên khoảng 20 giờ ngày 09/10/2018, T đón xe ôm đến khu vực đường KNĐ, phường BHH A, quận BT mua từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 1678/KLGĐ-H ngày 17 tháng 10 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Phạm Nguyễn Phước Huy (người chứng kiến), Bùi Quang T và hình dấu Công an Phường N, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2892g (không phẩy hai tám chín hai gam), loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Bùi Quang T, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 11/CT-VKS-Q6 ngày 03 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Bùi Quang T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quang T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua bịch ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) giá 300.000 đồng để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Quang T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Bùi Quang T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1678/18 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương.

Trả lại bị cáo Bùi Quang T 01 chiếc xe gắn máy biển số 51U5-2045, số khung 1060934, số máy 99000934 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Wang Guan, số loại 110, sơn màu Đỏ, dung tích 107); 01 chiếc điện thoại di động loại A7 (không có pin), số Imei 1: 355982739495448, số Imei 2:355982739495455; 02 sim điện thoại có số seri: 8401180151791844 OT và8401170551521317 OT; 01 cái bóp màu đen và số tiền 250.000 đồng.

Lời nói sau cùng, bị cáo Bùi Quang T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Bùi Quang T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Quang T đã cất giữ 0,2892 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Bùi Quang T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Bùi Quang T là người đã trưởng thành, có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Quang T là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác , do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Bùi Quang T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: Chiếc xe gắn máy biển số 51U5-2045 thu giữ của bị cáo Bùi Quang T, theo Kết luận giám định số: 12/KLGĐ-X(Đ6) ngày19/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Phiếu trả lời xác minh ngày 26/10/2018 của Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh thì chiếc xe này có số khung 1060934, số máy 99000934 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Wang Guan, số loại 110, sơn màu Đỏ, dung tích 107), do ông Đặng Văn N đứng tên chủ xe. Năm 2016, ông N đã bán chiếc xe lại cho ông Lê Văn T, sau đó ông T bán lại cho ông Nguyễn Thiện T2. Sau khi mua xe được khoảng bảy ngày, ông T2 đã bán lại cho người khác (không rõ lai lịch) và các ông N, T2 đều xác nhận không còn quyền lợi gì đối với chiếc xe này nữa. Còn theo Phiếu tra cứu xe máy, vật chứng số: 87/XMTV-PC01 ngày 10/12/2018 của Phòng PC01 Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì chiếc xe gắn máy biển số 51U5-2045 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 07/12/2018, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã đề nghị thông báo tìm chủ sở hữu của chiếc xe trên Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn không có ai đến nhận. Còn bị cáo Bùi Quang T khai chiếc xe này là của anh bị cáo tên là Bùi Quang T3, sinh năm 1977, trú tại 188 đường NS, phường PTH, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh mua cho bị cáo sử dụng. Xét lời khai của bị cáo Bùi Quang T là không có cơ sở, bởi ông N xác nhận bán chiếc xe này cho ông Lê Văn T vào năm 2016, nhưng qua xác minh tại Công an phường PTH, quận TP được biết ông Bùi Quang T3 bỏ địa phương đi đâu không rõ từ năm 2010 đến nay và chính bị cáo cũng không xác định được ông T3 hiện đang ở đâu. Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định chiếc xe gắn máy biển số 51U5-2045 hiện chưa rõ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nên nếu trong thời hạn 04 (bốn) tháng, kể từ ngày thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe thì tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Còn nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này thì trả lại cho họ.

Riêng 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số:1678/18 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương và 01 cái bóp màu đen (bị cáo Bùi Quang T dùng cất giữ ma túy), là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc điện thoại di động loại A7 (không có pin), số Imei 1: 355982739495448, số Imei 2: 355982739495455 (bên trong có 02 sim điện thoại có số seri: 8401180151791844 OT và 8401170551521317 OT) và số tiền 250.000 đồng thu giữ của bị cáo Bùi Quang T. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 200/PNK ngày 10 tháng 12 năm 2018 của Công an Quận 6 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 06/2018 ngày 12 tháng12 năm 2018 của Kho bạc nhà nước Quận 6 - BL63, 64)

[6] Đối với người đàn ông mà bị cáo Bùi Quang T khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Bùi Quang T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tạiĐiều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Bùi Quang T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Bùi Quang T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2018.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 51U5-2045, số khung 1060934, số máy 99000934 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Wang Guan, số loại 110, sơn màu Đỏ, dung tích 107), nếu trong thời hạn 04 (bốn) tháng, kể từ ngày thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này. Còn nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này thì trả lại cho họ.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1678/18 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương; 01 (một) cái bóp màu đen.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại bị cáo Bùi Quang T 01 (một) chiếc điện thoại di động loại A7 (không có pin), số Imei 1: 355982739495448, số Imei 2: 355982739495455; 02 (hai) sim điện thoại có số seri: 8401180151791844 OT và 8401170551521317OT; 250.000 (hai trăm năm mươi ngàn) đồng.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.Bị cáo Bùi Quang T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Bùi Quang T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về