Bản án 05/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 156/2018/TLST-HS, ngày 25 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Minh T, sinh năm 1992 tại Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: Ấp 10, xã B, huyện L, tỉnh Đ. Nơi cư trú: Ấp 3, xã S, huyện L, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lái xe (Bị cáo là thiếu úy sĩ quan sự bị; chức vụ Trung đội trưởng); trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Minh H và bà Ngô Kim L; vợ: Bùi Thị Thanh T, bị cáo có 01 con sinh năm 2018; bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 03 anh em; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 18/10/2018 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành.

- Người làm chứng: Chị Lê Thị Hoàng Tr, sinh năm: 1999.

Địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện T, tỉnh B.

(Bị cáo Vũ Minh T có mặt, người làm chứng chị Lê Thị Hoàng Tr vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ ngày 18/10/2018, Công an huyện Long Thành kết hợp với Công an thị trấn Long Thành kiểm tra hành chính phòng số 107, nhà nghỉ “Hoàng Long” ở thị trấn Long Thành, huyện Long Thành do Vũ Minh T và Lê Thị Hoàng Tr thuê; phát hiện thu giữ trên đầu giường 04 túi nylon được dán kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 04 viên nén hình tam giác màu xanh có in chữ nổi “EA7”, 02 mảnh viên nén nhỏ không rõ hình (bị vỡ) và 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy tổng hợp.

Quá trình điều tra xác định: Vũ Minh T là người nghiện ma túy. Tr thường đến khu vực cầu Bình Lợi, thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của người đàn ông tên Tr (chưa rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) về cất giấu sử dụng dần. Lần gần nhất là khoảng giữa tháng 10/2018 (không nhớ rõ ngày), T đón xe buýt đến khu vực cầu Bình Lợi, sử dụng điện thoại di động liên lạc mua của Tr 04 túi nylon chứa ma túy và 05 viên nén ma túy với giá 10.000.000 đồng. Lúc 01 giờ ngày 18/10/2018, T mang toàn bộ số ma túy trên đi cùng bạn gái là Lê Thị Hoàng Tr đến thuê phòng số 107, nhà nghỉ “Hoàng Long” để ngủ. Đến 10 giờ cùng ngày, Công an huyện Long Thành kết hợp với công an thị trấn Long Thành kiểm tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang như nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 543/PC09-GĐMT ngày 24/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,9460 gam, loại: Methamphetamine”.

Mẫu tinh thể màu trắng (kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,1223 gam, loại: Ketamine.

Mẫu tinh thể màu trắng đục (kí hiệu M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 2,1751 gam, loại Ketamine.

Mẫu viên nén hình tam giác màu xanh có logo EA7 và 02 mảnh của viên nén màu xanh (kí hiệu M4) được niêm phong gửi đến phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,8104 gam, loại MDMA.

Vật chứng vụ án: 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 543/PC09-GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp đã được chuyển đến Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Long Thành chờ xử lý.

Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, bị cáo Vũ Minh T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được tại hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 05/CT-VKS, ngày 20 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo Vũ Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Minh T từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng – 03 (ba) năm tù giam.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 543/PC09- GĐMT ngày 24/10/2018 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa thể hiện bị cáo là sĩ quan dự bị, cấp bậc thiếu úy, chức vụ trung đội trưởng. Tuy nhiên thời điểm phạm tội bị cáo không phải là quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 272 Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3]. Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Minh T khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy. Bị cáo thường đến khu vực cầu Bình Lợi, thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của người đàn ông tên Trung (chưa rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) về cất giấu sử dụng dần. Lần gần nhất là khoảng giữa tháng 10/2018 (không nhớ rõ ngày), Bị cáo đón xe buýt đến khu vực cầu Bình Lợi, sử dụng điện thoại di động liên lạc mua của Tr 04 túi nylon chứa ma túy và 05 viên nén ma túy với giá 10.000.000 đồng. Lúc 01 giờ ngày 18/10/2018, Bị cáo mang toàn bộ số ma túy trên đi cùng bạn gái là Lê Thị Hoàng Tr đến thuê phòng số 107, nhà nghĩ “Hoàng Long” để ngủ. Đến 10 giờ cùng ngày, Công an huyện Long Thành kết hợp với công an thị trấn Long Thành kiểm tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang Trí cùng vật chứng là 04 túi nylon chứa ma túy và 05 viên nén ma túy. Qua giám định thì số ma túy thu giữ của Trí có trọng lượng 1,9460 gam, loại: Methamphetamine; 3,2974 gam, loại Ketamine và 1,8104 gam, loại MDMA. Do tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy thu giữ của bị cáo Vũ Minh Trí là 91% nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của chính phủ quy định về việc tính khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi của bị cáo Vũ Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên bị cáo hiểu rất rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác nhưng vì xem thường pháp luật bị cáo vẫn cất giấu trong người để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, là quân nhân xuất ngũ. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Đối với người tên Tr bán ma túy cho T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xử lý sau.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 543/PC09-GĐMT ngày 24/10/2018 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Minh T: 02 (hai) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 18/10/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 543/PC09-GĐMT ngày 24/10/2018 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp.

(Hiện vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành quản lý theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/12/2018).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Vũ Minh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vũ Minh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về