Bản án 05/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN BẮC - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Ngô Thị Hồng K (tên gọi khác: Lớn)– sinh năm: 1976, tại Bình Định, Giới tính: Nữ Nơi cư trú: k6, phường ĐV, thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn): 05/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: (không rõ) và bà Ngô Thị Th (đã chết); Chồng là Nguyễn Tấn Đ, có 02 người con; Tiền án, Tiền sự: không; Tạm giữ, tạm giam: không; Bị cáo hiện đang tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Thị Bích T – Văn phòng luật sư MN – thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận Địa chỉ: k7 – phường ĐV, thành phố Phan Rang Tháp Chàm – tỉnh Ninh Thuận; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: ông Nguyễn Bạch Đ (đã chết);

Đi diện hợp pháp của bị hại: bà Lê Thị Y – sinh năm 1947 – Là mẹ ruột của bị hại; anh Nguyễn Thạch S – sinh năm: 1993, anh Nguyễn Thạch A – sinh năm: 1996; Là các con của bị hại;

Do anh Nguyễn Trường S – sinh năm: 1985 - Đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền lập ngày 23/3/2019).

Đa chỉ: khu phố BT, thị trấn PD, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Chị Trần Thị M - sinh năm 1970; Có mặt tại phiên tòa;

Đa chỉ: k6, phường ĐV, thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận;

2. Anh Lê Thành T - sinh năm 1976; Vắng tại phiên tòa;

Đa chỉ: K5, phường ĐV, thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận; .

3. Chị Dương Thị Hồng H - sinh năm 1985; Vắng mặt tại phiên tòa;

Đa chỉ: thôn B, xã BS, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Thị Hồng K không có giấy phép lái xe mô tô. Vào sáng ngày 31/01/2019, K đến nhà anh Lê Thành T để đi hái nho thuê cho anh T. Tại đây, thấy có chiếc xe mô tô biển số 85B1-196.34 cắm sẵn chìa khóa để cho người làm thuê sử dụng làm phương tiện đến vườn nho nên K lấy xe chở Chị Trần Thị M ngồi trên khung sắt kích thước (0.66 x 1) m gắn trên yên xe đi đến vườn nho tại thôn Xóm Bằng, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi cắt nho xong, K tiếp tục điều khiển xe đi về trên đường liên thôn theo hướng Bỉnh Nghĩa đi Phương Cựu tốc độ khoảng 40km/h, khi đến địa phận thôn Bỉnh Nghĩa, xã Bắc Sơn, K quan sát thấy phía trước có xe mô tô biển số 86K7-7871 kéo theo rơ móc tự chế kích thước (1 x 1 x 1,2)m do ông Nguyễn Bạch Đ điều khiển, cùng chiều bên phải sát với tim đường với tốc độ khoảng 30km/h. Khi còn cách rơ móc tự chế khoảng 05m, K nhìn thấy phần đường bên phải của xe còn trống (khoảng 01m) nên bóp còi báo hiệu đồng thời cho xe lách về bên phải, tăng tốc định vượt qua, khi khoảng cách còn 03m K phát hiện phía bên phải của Rơ móc có 01 cây sắt dài lộ ra nên K cho xe lách về bên trái xe mô tô 86K7-7871, tăng tốc vượt qua. Trong lúc vượt song song với rơ móc thì khung sắt phía sau xe của K quẹt vào góc sau bên trái thùng rơ móc tự chế, gây tai nạn. Ông Đ được đưa đi bệnh viện cấp cứu, đến ngày 07/02/2019 ông Đ chết, K và chị Mười bị trầy xước nhẹ, hai xe mô tô hư hỏng.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 25/TT ngày 21/02/2019 của T tâm giám định y khoa - pháp y tỉnh Ninh Thuận nhận định: nạn nhân Nguyễn Bạch Đ chết do đa chấn thương nặng vùng ngực, bụng, tay chân do tai nạn giao thông điều trị không phục hồi.

Trong quá trình điều tra, Ngô Thị Hồng K đã tự nguyện bồi thường 25.000.000đ, anh Lê Thành T hổ trợ bồi thường 5.000.000đ cho gia đình ông Đ để lo chi phí mai táng, gia đình ông Đ không yêu cầu gì thêm.

Đi với anh Lê Thành T là chủ xe mô tô 85B1-196.34, việc bị cáo tự ý lấy xe mô tô của anh T để tham gia giao thông sau đó xảy ra tai nạn, bản thân anh T không biết nên không có căn cứ để xem xét xử lý.

Cơ quan điều tra đã tạm giữ, sau đó đã trả lại xe mô tô 85B1-196.34 cho anh Lê Thành T là chủ sở hữu; xe mô tô 86K7-7871 cùng với Rơ móc cho anh Nguyễn Trường S là đại diện gia đình ông Đ.

* Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSTB ngày 23/5/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Ngô Thị Hồng K về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 65 của BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo Ngô Thị Hồng K từ 15 – 18 tháng tù. Áp dụng thời gian thử thách đối với bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo: nhất trí với tội danh và khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Hoàn cảnh bị cáo là người nông dân, bán vé số, chồng bị cáo bị thương tích, lao động hạn chế, thu nhập phụ thuộc vào bị cáo. Bị cáo đi cắt nho thuê, không có phương tiện đi lại, phụ thuộc vào người thuê. Bị hại cũng có lỗi, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo nói lời sau cùng: xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Thuận Bắc, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Qua thẩm vấn công khai tại phiên toà hôm nay, bị cáo Ngô Thị Hồng K khai nhận bản thân bị cáo không có giấy phép lái xe mô tô nhưng vào khoảng 16h ngày 31/01/2019 bị cáo đã điều khiển xe mô tô biển số 85B1-196.34 46 tham gia giao thông va chạm với xe mô tô biển số 86K7-7871 kéo theo rơ móc do ông Nguyễn Bạch Đ điều khiển tại đường liên thôn thuộc thôn Bỉnh Nghĩa, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc. Hậu quả làm cho ông Nguyễn Bạch Đ chết.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với các dấu vết được ghi nhận tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 31/01/2019 (BL 45,46), sơ đồ hiện trường (BL 46), biên bản kiểm tra hiện trường và sơ đồ kiểm tra hiện trường lập ngày 08/2/2019 (BL 35 - 37) và biên bản khám phương tiện lập ngày 09/02/2019 (BL 38 - 41).

[4] Hành vi của bị cáo thể hiện sự chủ quan khi điều khiển xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, không tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật giao thông đường bộ đã vi phạm khoản 2 Điều 14 , điểm a khoản 5 Điều 14 (không được vượt xe khi không đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này) của Luật giao thông đường bộ.

[5] Bị hại (ông Nguyễn Bạch Đ) cũng có lỗi điều khiển xe mô tô mà không có giấy phép lái xe, sử dụng xe mô tô lại kéo theo rơ móc, hàng hóa xếp trên rơ móc không gọn gàng, gây cản trở giao thông vi phạm quy định tại điểm d khoản 3 Điều 30; khoản 1 Điều 58, điểm a khoản 2 Điều 59 của Luật giao thông đường bộ.

[6] Lỗi gây ra tai nạn là lỗi hỗn hợp của cả bị cáo và bị hại. Hậu quả làm cho ông Nguyễn Bạch Đ đang lưu thông cùng chiều chết do tai nạn giao thông (BL 33, 34) nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ngô Thị Hồng K đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và do bị cáo “không có giấy phép lái xe” theo quy định tại khoản 1 Điều 58, điểm a khoản 2 Điều 59 của Luật giao thông đường bộ nên Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc truy tố bị cáo theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[7] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường của các phương tiện khác khi tham gia giao thông, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác nên cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; tự nguyện bồi thường về trách nhiệm dân sự cho gia đình bị hại; bị hại cũng có một phần lỗi như đã phân tích ở trên. Các tình tiết này được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo (BL 65, 66); tại phiên tòa có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử có cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[9] Về tình tiết tăng nặng: không có.

[10] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đủ điều kiện để xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khoản 2 Điều 260 BLHS theo quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS.

[11] Xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo là phụ nữ, có chồng bị thương tích, khả năng vận động, lao động hạn chế nên bị cáo là lao động chính trong gia đình nếu phải chấp hành hình phạt tù thì sẽ gây khó khăn cho gia đình, bị cáo có đủ điều kiện xem xét cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự, được hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao “Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo”.

[12] Về xử lý vật chứng: cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô 85B1-196.34 cho anh Lê Thành T - chủ sở hữu; xe mô tô 86K7-7871 cùng với Rơ móc cho anh Nguyễn Trường S - đại diện gia đình ông Đ là phù hợp.

[13] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã thỏa thuận bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại số tiền 30.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của gia đình bị hại không có yêu cầu nào khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra đối với bị cáo.

[14] Tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt là phù hợp nên được chấp nhận.

[15] Ý kiến của Người bào chữa cho bị cáo: là có căn cứ nên được chấp nhận.

[16] Về án phí: theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: bị cáo Ngô Thị Hồng K (tên gọi khác: Lớn) phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

* Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 54, 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Ngô Thị Hồng K 15 (Mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/06/2019).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường ĐV, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án Hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Về án phí: bị cáo Ngô Thị Hồng K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về