Bản án 05/2019/HSST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 05/2019/HSST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2018/HSST ngày 16 tháng 01 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST – HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Văn Vũ V, sinh năm 1983 tại T Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở hiện nay: T5, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hiếu và bà Nguyễn Thị Lành; bị cáo có vợ và 02 người con lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/5/2011 bị Ủy ban nhân dân huyện B ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Bị cáo đã chấp hành xong ngày 15/11/2012. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2018 cho đến nay (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 28/11/2018, Nguyễn Văn Vũ V đến khu vực siêu thị “Coopmart” thuộc khu vực phường Tân Bình, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước gặp một người tên Thắng (không rõ nhân thân lai lịch) mua hai triệu đồng ma túy đá để sử dụng. Thắng nhận tiền rồi nói với V đi qua bên kia đường hướng đối diện siêu thị đợi thấy ai vứt cái ví da màu đỏ thì lấy. V đồng ý đi qua đường đứng đợi khoảng 10-15 phút thì thấy có 01 người điều khiển xe máy tới gần thả 01 cái ví da màu đỏ xuống lề đường, V nhặt lên cất giấu vào túi quần jean bên phải đang mặc rồi đón xe khách đi về huyện B. Khi đến Ngã ba “Sao Bọng” thuộc khu vực T2, xã Đ, huyện B thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 383/KL – GĐKHS ngày 04/12/2018 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Phước xác định chất màu trắng trong 02 gói ny lon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamin có khối lượng 2,1482g.

Vật chứng vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 383 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Phước; 01 ví da màu đỏ, 01 điên thoại di động hiệu Samsung màu đen bị vỡ màn hình.

Tại bản cáo trạng số: 07/CT –VKS - BĐ ngày 15/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Nguyễn Văn Vũ V về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Vũ V phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt, áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Vũ V từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (tháng) tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Bị cáo Nguyễn Văn Vũ V thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 28/11/2018, Nguyễn Văn Vũ V đến khu vực “Siêu thị Coopmart” thuộc khu vực phường Tân Bình, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước mua 02 gói ma túy đựng trong vì da màu đỏ có trọng lượng 2,1482g.gam của một người thanh niên tên Thắng không rõ nhân thân lai lịch cất giấu trong túi quần jean và đi về khu vực ngã ba Sa Bọng với mục đích về sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Qua giám định chất màu trắng đựng trong 02 gói nylon là ma túy (Heroin), có trọng lượng là 2,1482g gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Vũ V đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ……………………………………………

c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo vào ngày 25/5/2011 đã bị Ủy ban nhân dân huyện Bù Đăng ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh về hành vi sử dụng chất ma túy, tuy không xác định là tiền sự nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đang nuôi con nhỏ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Ngoài ra, bị cáo có điều kiện hoản cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 383/2018/GĐKTHS của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước; 01 ví da màu đỏ,

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen bị vỡ màn hình theo biên bản thu giữ của cơ quan điều tra và biên bản giao, nhận vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với người thanh niên tên Thắng bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người chơi máy bắn cá đã cho bị cáo biết đi gặp Thắng để mua ma túy chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Vũ V phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Vũ V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/11/2018.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 383/2018/GĐKTHS của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước và 01 ví da màu đỏ.

Tuyên trả lại cho bị cáo: 01 điên thoại di động hiệu Samsung màu đen bị vỡ màn hình. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009666 ngày 04/01/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Vũ V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HSST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về