Bản án 06/2017/HSST ngày 10/03/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN NAM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 06/2017/HSST NGÀY 10/03/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 10 tháng 3 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 04/2017/HSST ngày 13 tháng 02 năm 2017 đối với bị cáo: Đàng Thanh X, tên gọi khác: N, sinh năm 1993 tại Ninh Thuận; nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn D, huyện P, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Chăm; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Bà la môn; con ông Đàng Thanh A và bà Đàng Thị N; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang tại ngoại (có mặt).

Người bị hại: Anh Đổng N (đã chết) Đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Chị Trượng Thị T, sinh năm 1974. Trú tại: thôn T, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (là vợ người bị hại - có mặt)

2. Ông Đổng C, sinh năm 1941. Trú tại: Khu phố A, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (cha ruột người bị hại - có mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Đàng Thanh X (N) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện, tỉnh Ninh Thuận truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Đàng Thanh X, không có giấy phép lái xe mô tô. Nhưng khoảng 21 giờ 20 phút ngày 02/11/2016 sau khi dự đám cưới tại thôn T, xã P, huyện N. X điều khiển xe máy biển số 85D1–270.77 chở Đàng Quang N ra về với vận tốc khoảng 50 – 60km/h. Khi đến Km 01 đường 709 thuộc thôn H, xã N, huyện T, X chạy lấn sang phần đường của xe ngược chiều tông vào xe máy biển số 85R7–6935 do anh Đổng N trú Thôn T, xã P điều khiển đi ngược chiều. Hậu quả: Anh N chết tại chỗ, X bị thương, hai xe hư hỏng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Vụ tai nạn giao thông xảy ra trên đường 709 thuộc thôn T, xã N, huyện T. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng rộng 6m, không có vạch kẻ đường. Chọn mép đường bên phải theo hướng đi thôn B làm lề chuẩn, cũng là hướng khám nghiệm chính của hiện trường, xác định vị trí như sau: Vị trí số 01: Là nạn nhân Đổng N chết nằm ngửa, đầu hướng về phía bắc, đỉnh đầu cách lề chuẩn 1m90; Vị trí số 02: Là xe máy BKS 85R7 – 6935 nằm ngã bên trái hiện trường, đầu xe hướng về phía tây, tâm bánh trước cách lề chuẩn 2m60, đuôi xe hướng về phía bắc, tâm bánh sau cách lề chuẩn 1m70; Vị trí số 03: Là xe máy BKS 85D1–270.77 đang dựng tại hiện trường (do người dân dựng lên để cấp cứu người bị thương), đầu hướng về phía đông, tâm bánh trước cách lề chuẩn 1m, đuôi xe hướng về phía tây, cách lề chuẩn 1m70; Vị trí số 04: Là khu vực mãnh vỡ màu đen KT 1m70 x 1m, trung tâm mãnh vỡ cách lề chuẩn 2m; Vị trí số 05: Là vết máu KT 0,20m x 0,30m, dạng hình tròn, tâm vết máu cách tâm bánh trước của xe máy ở vị trí số 02 là 0,90m.

Biên bản khám nghiệm tử thi Đổng N ghi nhận: Vùng mặt: Trán trái có vết rách da..., mi trên mắt trái có vết trách da...Hai mắt nhắm, niêm mạc mắt trái xuất huyết, mắt phải trắng nhợt, đồng tử dãn đều 04mm,...Vùng ngực: Đường giữa xương đòn bên phải tương ứng khoang liên sườn V,VI có mảng trầy da tụ máu...Vùng bụng:Vùng thượng vị có vết trầy da tụ máu...,mạng mỡ bên trái có vết trầy da tụ máu...Chân phải: gãy kín 1/3 dưới xương đùi phải, đùi phải biến dạng, mặt ngoài khớp gối có vết trầy da tụ máu..., mặt trước 1/3 cẳng chân có vết trầy da tụ máu KT (3,5x1)cm.

Bản kết luận giám định pháp y thương tật số 181/TT ngày 10/11/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận: Vì gia đình không đồng ý cho Hội đồng giải phẩu tử thi. Qua khám nghiệm bên ngoài hội đồng không đủ cơ sở xác định nguyên nhân gây ra chết của nạn nhân. Kết quả trưng cầu giám định giá trị thiệt hại của xe máy BKS 85R7-6935 là 186.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 13/02/2017, Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Đàng Thanh X về tội“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đàng Thanh X thừa nhận: Bản thân chưa có giấy phép lái xe mô tô hạng A1, nhưng tối ngày 02/11/2016 vẫn điều khiển xe mô tô 85D1- 270.77 có dung tích xi – lanh 110 cm3 (theo quy định của Luật giao thông đường bộ phải có giấy phép lái xe hạng A1 mới được điều khiển) và khi chạy xe về đến Km 01 đường 709 thuộc thôn T, xã N,  huyện N trong điều kiện trời có mưa, không đèn đường bị cáo chủ quan không giảm tốc độ, chạy lấn sang phần đường của xe ngược chiều nên đã tông trực diện vào xe máy 85R7–6935 do anh Đổng N đang điều khiển đi ngược chiều. Hậu quả: Anh N chết tại chỗ, X bị thương, hai xe hư hỏng.

Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ đã thu thập đúng quy định của pháp luật như: Biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản khám nghiệm tử thi; biên bản khám nghiệm 02 xe mô tô, người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 17 và điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông đường bộ gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của người khác. Lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam truy tố bị cáo về tội “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” thuộc trường hợp “không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái xe theo quy định” tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ đúng pháp luật nên cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc do chính hành vi, hậu quả bị cáo đã gây ra, mới có tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa, trước tình hình tai nạn giao thông do người điều khiển không tuân thủ các quy định của Luật giao thông đường bộ để lại nhiều hậu quả hết sức nghiêm trọng cho gia đình, xã hội.

Tuy nhiên xét bị cáo sau khi gây tai nạn đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cùng với cha là ông Đàng Thanh A tự nguyện bồi thường 50.000.000đ chi phí mai táng, sửa xe và các chi phí khác theo yêu cầu của gia đình người bị hại, nên đại diện hợp pháp người bị hại có đơn cũng như tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì do một phần có quan hệ họ hàng; bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là cơ sở áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Đổng C, bà Trượng Thị T, thừa nhận đã nhận tiền bồi thường chi phí mai táng, sửa xe. Có ý kiến đối với yêu cầu hỗ trợ cấp dưỡng 500.000đ/tháng cho 04 người con để hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết trong vụ án và không yêu cầu gì thêm. Ông Đàng Thanh A không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã bồi thường cho gia đình nạn nhân và tiền sửa chữa xe. Đây là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, nên Hội đồng xét xử không xem xét về trách nhiệm dân sự.

Về xử lý vật chứng:

Xe mô tô biển số 85R7–6935 của anh Đổng N và  xe mô tô Sirius biển số 85D1– 270.77 của bà Đàng Thị L (con bà L tự ý cho bị cáo mượn) ông Đàng Thanh A đã khắc phục sửa chữa, ngày 11/1/2017 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu (BL 28,29).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Đàng Thanh X (N) phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đương bộ".

- Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Đàng Thanh X (N) 09 ( chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Về án phí:

Bị cáo Đàng Thanh X (N) phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 10/3/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2017/HSST ngày 10/03/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:06/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Nam - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về