Bản án 06/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 06/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/11/2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T Đ, tỉnh Lai Châu, mở phiên  tòa  xét  xử  sơ  thẩm  vụ  án  hình  sự,  thụ  lý  số  06/2017/TLST-HS  ngày 11/11/2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2017/HSST-QĐ ngày 13/11/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN HỮU M - Sinh năm: 1965; Nguyên quán: H H, Thái Bình

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản 46, xã S B, huyện T Đ, tỉnh Lai Châu.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/10; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Nguyễn Hữu V, sinh năm 1947 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1947; Anh, chị và em ruột: Có 07 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1969 và 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 2002

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 10 năm 2017 tại Nhà tạm giữ - Công an huyện T Đ, tỉnh Lai Châu cho đến nay (có mặt).

Người làm chứng: Nguyễn Văn V, sinh năm 1979.

Trú tại: Bản T, xã B L, huyện T Đ, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 7 giờ ngày 03 tháng 10 năm 2017, Nguyễn Hữu M đi nhờ xe của một người nam giới không quen biết từ nhà mình ở bản 46, xã S B đến Trung tâm y tế huyện T Đ để uống thuốc Methadone. Khi đến cổng Trung tâm y tế huyện T Đ, M gặp một người nam giới dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi (bị cáo không rõ nhân thân, lai lịch). Thấy người nam giới này giống người nghiện chất ma túy nên Mai hỏi mua Heroine, người nam giới này đồng ý bán và hẹn địa điểm giao dịch tại khu vực chợ cũ thuộc bản T, thị trấn T Đ nên sau khi uống thuốc Methadone xong, Mđi bộ xuống chợ cũ thuộc bản T, thị trấn T Đ gặp và mua được của người nam giới này 01 gói Heroine được gói ngoài bằng nilon màu xanh với giá 400.000 đồng.

Mua được Heroine, M cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi nhờ xe của một người nam giới không quen biết về nhà. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, trong lúc không có ai ở nhà, M lấy gói Heroine đã mua được ra chia thành 19 gói nhỏ, từng gói được gói bằng mảnh nilon màu trắng rồi cho vào một túi nilon màu trắng cất vào trong túi áo ngực đang mặc nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Sau đó M đã 03 lần lấy ra 03 gói Heroine sử dụng hết, còn 16 gói M vẫn cất trong túi áo ngực đang mặc trên người.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, trong lúc M đang sửa chữa đồ điện tử tại nhà mình thì Nguyễn Văn V, sinh năm 1979, trú tại bản T, xã B L đến hỏi mua 100.000 đồng Heroine để sử dụng, M nhất trí bán và lấy 01 gói Heroine trong số 16 gói đưa cho V, đồng thời nhận 100.000 đồng V đưa cất vào túi áo ngực đang mặc cùng với số Heroine còn lại rồi tiếp tục sửa chữa đồ điện tử, còn V ngồi xem. Trong lúc M không để ý, V tự ý nhặt 01 mảnh giấy bạc đến góc nhà M lấy gói Heroine vừa mua được của M ra sử dụng hình thức hít. Lúc này Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện TT Đ đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản 46, xã S B nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nơi ở của M có biểu hiện phạm tội về ma túy nên đến xác minh và bắt quả tang đối với Nguyễn Văn V về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời kiểm tra phát hiện thu giữ trong túi áo ngực Nguyễn Hữu M đang mặc 15 gói nhỏ Heroine cùng với số tiền 100.000 đồng vừa bán Heroine cho V mà có.

Tại bản kết luận giám định số 413/GĐ - KTHS ngày 14 tháng 10 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận:

Các chất bột khô, vón cục, màu trắng (ký hiệu từ M1 đến M15) gửi giám định là Heroine

Căn cứ biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng lập hồi 18 giờ 15 phút ngày 03/10/2017 tại Công an huyện T Đ thì số chất bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ của Nguyễn Hữu M có tổng trọng lượng là 0,35 g (không phẩy ba lăm gam) – không tính trọng lượng bao bì”

Cáo trạng số 26/KSĐT- MT ngày 10/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T Đ, truy tố bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu M đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng Nguyễn Văn V và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về không gian, thời gian và địa điểm phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T Đ, trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về hình phạt, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự, đề nghị tuyên phạt bị cáo mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội và cấu thành tội phạm: Vào khoảng 15 giờ, ngày 03 tháng 10 năm 2017, tại nơi ở của mình thuộc Bản 46, xã S B, huyện T Đ, tỉnh Lai Châu, Nguyễn Hữu M đã thực hiện hành vi bán trái phép 01 gói Heroine được gói ngoài bằng nilon màu trắng cho Nguyễn Văn V, sinh năm 1979, trú tại bản T, xã B L, huyện T Đ, tỉnh Lai Châu lấy 100.000 đồng, còn lại 15 gói Heroine có tổng  trọng lượng 0,35 gam bị cáo chưa kịp bán thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T Đ bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi bị cáo Nguyễn Hữu M thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

[2]. Về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Ma tuý đang là nỗi nhức nhối trong đời sống xã hội, và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó mọi hành vi phạm tội liên quan tới ma tuý cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật, nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn.

[3]. Về mục đích phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Hữu M là đối tượng nghiện chất ma túy, ngoài việc mua trái phép chất ma túy về sử dụng cho bản thân, bị cáo còn bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy khác nhằm thu lời bất chính.

[4]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nguyễn Hữu M được sinh ra trong gia đình lao động, được ăn học hết lớp 8/10, tuy đã lớn tuổi song bị cáo đã không chịu khó tu dưỡng rèn luyện làm ăn chân chính và làm gương cho con cháu mà lại ăn chơi, đua đòi và nghiện chất ma túy, không những vậy vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật và sự lên án của xã hội để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo đã nhiều lần bị kết án về những tội danh khác nhau, mặc dù đã được xóa án tích nhưng lần phạm tội này đã thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo và chứng minh bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần có một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, cai nghiện trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Hữu M không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5]. Về vật chứng: Số tiền 100.000 đồng thu giữ của Nguyễn Hữu M có được từ việc bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn V là tài sản do phạm tội mà có cần tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước; 01 phong bì công văn do Công an huyện T Đ phát hành dùng niêm phong vật chứng của Nguyễn Văn V xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.

[6]. Về trình tự thủ tục tố tụng và hành vi của những người tiến hành tố tụng:

Quá trình giải quyết vụ án, từ khi vụ án được khởi tố đến thời điểm vụ án được đưa ra xét xử đã được điều tra, truy tố và xét xử theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với vụ án theo quy định tại các Điều 12, Điều 23, Điều 33, Điều 34, Điều 35, Điều 36, Điều 37 và của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7]. Một số vấn đề liên quan trong vụ án:

Đối với người nam giới dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi đã bán Heroine cho bị cáo, do nhân thân, lai lịch của người nam giới này không rõ ràng nên  Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác minh, làm rõ và xử lý.

Nguyễn Văn V sử dụng trái phép chất ma túy (hít Heroine) tại góc nhà Nguyễn Hữu M, kết quả điều tra xác định M không biết V sử dụng trái phép chất ma túy tại nơi ở của mình nên không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn V chỉ là hành vi vi phạm hành chính nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 41 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 76, Điều 99, Điều 234 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2017. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu số tiền 100.000 đồng của Nguyễn Hữu M do bán trái phép chất ma túy mà có để sung vào công quỹ Nhà nước; Tịch thu 01 phong bì công văn do Công an huyện phát hành dùng niêm phong vật chứng của Nguyễn Văn V để tiêu hủy.

Các vật chứng nêu trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T Đ. Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 10/11/2017 giữa Công an huyện T Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện T Đ.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn mười lăm ngày lên Toà án cấp trên kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

391
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:06/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về