Bản án 06/2018/HS-ST ngày 12/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 12/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sụ thụ lý số 273/2017/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 962/2017/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Phan Mộng Th; Sinh năm: 1983; Tại xã A, thành phố B; Nơi cư trú: Khóm C, Phường D, thị xã G, tỉnh H; Nghề nghiệp: mua bán; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;Con ông Phan Văn Đắc ( chết) và bà Trần Bạch Tuyết; có chồng Lý Minh Nhật (đã ly hôn) và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: tốt; cấm khỏi nơi cư trú: ngày 02/11/2017 đến nay. Có mặt.

Người bị hại: Lưu Thị Thu C; sinh năm: 1972; Nơi cư trú: số 72, đường A, khóm M, phường N, thành phố E, tỉnh K. vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Lâm Thanh H; sinh năm: 1975; Nơi cư trú: Khóm C, Phường D, thị xã G, tỉnh H. Xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 22/10/2017, Phan Mộng Th điều khiển xe máy hiệu Future biển số 94Dl-269.11 đi từ Hộ Phòng đến đường A, khóm M, phường N, thành phố E, thì phát hiện nhà của chị Lưu Thị Thu C không đóng cửa trước. Th đậu xe trước cửa nhà của chị C, rồi đi vào trong nhà mở cửa phòng ngủ, thấy chị C đang ngủ và nhìn thấy tiền để trên bàn trang điểm cạnh giường ngủ cùng túi xách màu đen để trên đầu giường nên đến lấy tiền và túi xách đi ra xe chạy về đến cầu Tắc Vân, thành phố E thì dừng xe lại kiểm tra tài sản trộm được gồm: tiền Việt Nam là 6.100.000 đồng, 03 thẻ vàng trọng lượng 03 chỉ vàng 24k, 01 cây son, 01 chai nước hoa, 01 chai dầu nước xanh. Th lấy 03 thẻ vàng bán được 10.650.000 đồng; Còn lại 01 cây son, 01 chai nước hoa, 01 chai dầu nước xanh Th để lại trong túi xách ném xuống sông tại cầu Tắc Vân. Sau khi phát hiện tài sản bị mất trộm, chị C đến trình báo tại Công an N, thành phố E. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Cà Mau tiến hành kiểm tra camera an ninh tại khu vực phát hiện Phan Mộng Th là đối tượng nghi vấn trộm cắp tài sản của chị Cầm.

Ngày 25/10/2017, Cơ quan điều tra tiến hành cho Phan Mộng Th xem đoạn camera và Th thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của chị C. Qua làm việc với Th, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 bộ quần áo màu xanh dương; 01 áo khoác tay dài màu hồng.

Tại kết luận định giá số 176/KL-HĐĐG ngày 27/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Tính vào thời điểm tháng 10 năm 2017: 01 thẻ vàng Phương Nam trọng lượng 01 chỉ vàng 24k là 3.460.000 đồng; 02 thẻ vàng SJC có trọng lượng 1 chỉ vàng 24k mỗi thẻ: 3.656.000 đồng x 2 chỉ = 7.312.000 đồng. Tổng cộng: 10.772.000 đồng.

Tại kết luận định giá số 197/KL-HĐĐG ngày 22/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Tính vào thời điểm tháng 10 năm 2017: 01 túi xách màu đen có kích thước khoảng 40cm, giá trị còn lại 80% là: 1.000.000 đồng x 80% = 800.000 đồng; 01 ví nhỏ màu đen hiệu Bella, giá trị còn lại 80% là : 600.000 đồng x 80% = 480.000 đồng; 01 chai nước hoa 100ml hiệu Elizabeth là : 1.500.000 đồng x 01 chai = 1.500.000 đồng; 01 chai dầu nước xanh 24ml : 100.000 đồng x 01 chai = 100.000 đồng; 01 thỏi son màu đen : 350.000 đồng x 01 thỏi = 350.000 đồng; 01 cục sạc dự phòng hiệu Xiaomi, dung lượng 10.000 mah, giá trị còn lại 80% : 600.000 đồng x 80 % = 480.000 đồng. Tổng cộng : 3.710.000đ

Tại bản Cáo trạng số: 04/KSĐT-TA, ngày 15 tháng 12 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đã truy tố bị cáo Phan Mộng Th về tội “ trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p Khoản 1 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sụ năm 1999.

Xử phạt: Phan Mộng Th từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ; tịch thu tiêu hủy 01 bộ quần áo màu xanh dương; 01 áo khoác tay dài màu hồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Mộng Th khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 22/10/2017, Phan Mộng Th có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của chị Lưu Thị Thu C có tổng trị giá là 20.582.000 đồng. Do đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phan Mộng Th phạm tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất vụ án là nguy hiểm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản người khác, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, do đó không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo Điều 48 bộ luật hình sự năm 1999.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Quá trình điều tra, cũng như tại phiên Tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại xin bãi nại cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,h,p Khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình Sự năm 1999 nên khi lượng hình cần xem xét tình tiết này để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và có nơi cư trú rõ ràng, không tiền án, tiền sự nên việc cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống đời thường của xã hội là không cần thiết, nếu không bắt các bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho những người biết sửa chữa lỗi lầm nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt cho bị cáo được chấp hành án tại địa phương cũng đủ thời gian để các bị cáo tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người tốt có ích cho xã hội.

Về vật chứng gồm: 01 bộ quần áo màu xanh dương; 01 áo khoác tay dài màu hồng, đây là quần áo mà bị can mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hiện không còn giá trị sử dụng và bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại số tiền 16.750.000, nay chị C không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra việc xem xét.

Đối với anh Lâm Thanh H là chủ sở hữu xe 94D1-269.11, việc anh H cho bị cáo mượn xe, sau đó bị cáo lấy xe để đi trộm cắp tài sản anh H hoàn toàn không biết nên Công an và Viện kiểm sát thành phố Cà Mau không xem xét xử lý là phù hợp.

Về án phí bị cáo phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Mộng Th phạm tội “trộm cắp tài sản

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; Điểm b, h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Phan Mộng Th 06 tháng tù nhưng cho được hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm ( ngày 12/01/2018). Giao bị cáo Phan Mộng Th cho Ủy ban nhân dân phường D, thị xã G, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ quần áo màu xanh dương; 01 áo khoác tay dài màu hồng.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị C, anh H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HS-ST ngày 12/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về