Bản án 06/2018/HSST ngày 26/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 06/2018/HSST NGÀY 26/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: K’ Br, sinh ngày 31/12/1999 tại: tỉnh Lâm Đồng

Nơi cư trú: Thôn 02, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kơ Ho; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin Lành; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: K’ Kr và bà Ka R; tiền án, tiền sự: không.

Bị bị bắt tạm giam từ ngày 18/11/2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo K’ Br:

Ông K’ Krếu, sinh năm 1971; Thôn 02, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; là cha ruột của bị cáo. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo:

Bà Trần Thanh X, Trợ giúp viên pháp lý công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

- Bị hại:

Bà Ngô Thị Ngọc D, sinh năm 1982; Nơi cư trú: số 200, đường Lý ThườngKiệt, thị trấn D, huyện D. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh K’ A, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Thôn 02, xã T, huyện D, tỉnh LâmĐồng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 03 tháng 5 năm 2017 K’Br điều khiển xe mô-tô BKS: 49M4-1244 đi ngang qua nhà của bà Ngô Thị Ngọc D (sinh năm: 1982) tại thôn 2, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng thì thấy nhà đóng cửa, không có ai trông coi nên K’Br nảy sinh ý định đột nhập vào nhà bà D để trộm cắp tài sản. K’Br để xe mô-tô phía trước rồi theo vườn cà phê đi ra phía bên hông nhà bà D thì thấy có 01 con dao rựa ở gần cửa hông nhà, K’Br lấy con dao rựa cạy miếng tôn trên cánh cửa hông rồi thò tay vào bên trong mở chốt cửa và đột nhập vào nhà. K’Br lục lọi áo treo trên tường gần cửa thấy có tiền nên bỏ vào túi. K’Br tiếp tục lục tìm thì thấy 01 bóp da để ở trên tủ tivi, K’Br lục lấy tiền trong bóp da cất vào túi còn bóp da thì để lại. Sau đó K’Br đi đến tủ bán hàng phía trước lục soát trong ngăn kéo tủ thấy có tiền mặt và 12 thẻ cào điện thoại trị giá 300.000 đồng (gồm 10 thẻ cào điện thoại mệnh giá 20.000 đồng và 02 thẻ cào điện thoại mệnh giá 50.000 đồng) thì lấy bỏ vào túi. K’Br tiếp tục lục soát thì thấy trên tủ lạnh có 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J2, K’Br trộm cắp điện thoại rồi theo cửa sau tẩu thoát. Sau khi về nhà K’Br đếm tiền mặt trộm cắp được tổng cộng là 5.000.000 đồng.

Chiều ngày 03/5/2017 K’Br bán chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J2 trộm cắp được tại nhà bà D cho K’A (sinh năm: 2000, trú tại: thôn 2, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng) với giá 400.000 đồng. Đối với 12 thẻ cào điện thoại, do K’Br đi chơi gặp mưa nên ướt hết không sử dụng được, K’Br đã đem vứt bỏ hết. Đối với số tiền 5.000.000 đồng trộm cắp được K’Br tiêu xài cá nhân hết 3.893.000 đồng, còn lại 1.107.000 đồng đã giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, bị can K’Br đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. (BL: 45-56)

Tại thông báo kết luận định giá tài sản số 158/TB-HĐĐG ngày 18/5/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện D kết luận: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J2 màu vàng đã qua sử dụng trị giá 1.200.000 đồng, 12 thẻ cào điện thoại trị giá 300.000 đồng. (BL: 22-25)

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D đã thu giữ:

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J2 màu vàng đồng, số tiền1.107.000 đồng – hiện đã trả cho chủ sở hữu là bà Ngô Thị Ngọc D. (BL 14,16,26- 27)

- 01 con dao rựa phát cũ dài 80cm, bề mặt lưỡi 4cm, cán dài 50cm; 01 xe môtô biển số 49M4-1244 màu đen - hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự quản lý. BL 15-16.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Ngô Thị Ngọc D đã nhận lại 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J2 màu vàng đồng và số tiền 1.107.000 đồng, yêu cầu bị can K’Br bồi thường giá trị tài sản còn thiếu theo định giá của nhà nước. Ngoài ra, bà D có trả cho K’A số tiền 400.000 đồng sau khi nhận điện thoại từ K’A nhưng không yêu cầu bị can K’Br bồi thường số tiền 400.000 đồng đã trả lại cho K’A. (BL: 31-34)

Đối với K’A khi mua điện thoại Samsung Galaxy J2 của K’Br thì không biết đây là điện thoại do K’Br trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý hình sự. Sau đó K’A đã giao nộp chiếc điện thoại trên cho Cơ quan điều tra và được bà D trả lại số tiền 400.000 đồng tiền mua điện thoại nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm. (BL 66-71).

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra bị can K’B đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử lý. Khi phạm tội bị can K’Br là vị thành niên (bị can sinh năm 1999 nhưng do không xác định chính xác ngày tháng nên áp dụng tình tiết có lợi cho bị can lấy ngày sinh là ngày 31/12/1999) nên được áp dụng thêm Chương X Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 06/Ctr-VKS ngày 08 tháng 01 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố K’ Br về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bố sung năm 2009.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 138; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 33, Điều 69, Điều 74 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm h, khoản 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và Điều 91 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt K’ Br từ 03 tháng đến 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị trả lại cho người bị hại 01 (một) con dao rựa phát cũ dài 80cm, bề mặt lưỡi 4cm, cán dài 50cm Bàn giao cho Công an huyện D 01 (một) xe mô tô biển số 49m4 -1244 màu đen (đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong) để xử lý theo thẩm quyền.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại bà Ngô Thị Ngọc D đã nhận lại 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 và gia đình bị cáo đã bồi thường được 4.107.000 đồng, bà D không yêu cầu gì thêm nên không đề nghị xem xét trách nhiệm dân sự trong vụ án.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bị cáo khi phạm tội và áp dụng điểm h, p Khoản 1 Điều 46, Điều 47, Điều 69, Điều 70 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 áp dụng cho bị cáo mức phạt thấp nhất của khung hình phạt.

Lời nói sau cùng: Bị cáo K’Br xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Bị cáo K’ Br là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết việc lợi dụng lúc chủ sở hữu không quản lý tài sản lén lút chiếm đoạt là vi phạm pháp luật nhưng căn cứ vào kết quả điều tra và khai nhận của bị cáo thì vào khoảng 11 giờ ngày 03 tháng 5 năm 2017 lợi dụng lúc chị D vắng nhà, bị cáo đã lén lút đột nhập vào nhà chị D lấy đi tài sản gồm: 5.000.000 đồng tiền mặt, 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 màu vàng đồng; 12 thẻ cào điện thoại (gồm 10 thẻ cào điện thoại mệnh giá 20.000 đồng và 02 thẻ cào điện thoại mệnh giá 50.000 đồng); Theo thông báo kết quả định giá số 158/TB-HĐĐG ngày 18/5/2017 thì 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 màu vàng có trị giá là 1.200.000 đồng, 10 thẻ cào điện thoại có trị giá là 300.000 đồng. Như vậy, tổng trị giá tài sản bị cáo lấy được là 6.500.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cáo trạng, Biên bản xác định hiện trường và các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án nên đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo K’ Br phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Mặc dù tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiệm trọng. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, mặc dù được gia đình bảo lãnh nhưng khi Cơ quan cảnh sát điều tra triệu tập bị cáo đến để làm việc thì bị cáo không chấp hành, gây trở ngại cho hoạt động điều tra, dẫn đến Cơ quan cảnh sát điều tra phải áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam bị cáo kể từ ngày 18/11/2017 cho đến nay, sự việc này cũng cho thấy bị cáo mặc dù phạm tội trong độ tuổi vị thành niên nhưng đã thể hiện thái độ coi thường kỷ cương pháp luật. Trong tình hình trên địa bàn huyện D thời gian gần đây, người chưa thành niên phạm tội đang có chiều hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, nguyên nhân chủ yếu từ do sự lười lao động nhưng lại muốn hưởng thụ, xa đà vào các trò chơi giải trí trên mạng, bên cạnh đó nền tảng giáo dục của gia đình chưa đến nơi đến chốn. Do đó, để đảm bảo tính răn đe đối với những hành vi coi thường kỷ cương pháp luật như bị cáo thì cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian thích hợp để giáo dục riêng đối với bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Khi phạm tội chưa thành niên, qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tích cực bồi thường thiệt hại, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là những tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, điểm h, điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cho bị cáo. Ngoài ra, căn cứ theo quy định điểm h, khoản 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 về nguyên tắc có lợi thì cũng cần áp dụng đoạn 2 khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 (Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi) cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Ngô Thị Ngọc D đã nhận lại 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J2 màu vàng đồng và số tiền 4.107.000 đồng không tiếp tục yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn thiếu. Ngoài ra, bà D có trả cho K’A số tiền 400.000 đồng sau khi nhận điện thoại từ K’A nhưng không yêu cầu bị cáo K’Br bồi thường số tiền 400.000 đồng đã trả lại cho K’A. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết về trách nhiệm dân sự.

 [6] Xử lý vật chứng: Vật chứng chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Di L bao gồm: 01 (một) con dao rựa phát cũ dài 80cm, bề mặt lưỡi 4cm, cán dài 50cm. Xét đây là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội, tuy nhiên vật dụng này là của người bị hại bà D và bà D có yêu cầu được nhận lại nên cần trả lại cho bà D là phù hợp. 01 (một) xe mô tô biển số 49m4 -1244 màu đen (đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong). Xe trên bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, không có giấy chứng nhận đăng ký xe, tại giai đoạn điều tra chưa xác minh được chủ sử dụng nên cần giao cho Công an huyện D tiếp tục tạm giữ để xác minh và xử lý theo thẩm quyền.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo K’ Brọi phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 138; Điểm b, h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 33, Điều 69, Điều 74 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm h, khoản 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và đoạn 2 khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt K’ Br 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Trả lại cho bà Ngô Thị Ngọc D 01 (một) con dao rựa phát cũ dài 80cm, bề mặt lưỡi 4cm, cán dài 50cm. (Theo biên bản giao vật chứng ngày 15/ 01/2018)

Giao Công an huyện D 01 (một) xe mô tô biển số 49M4 -1244 màu đen (đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong) để xác minh và xử lý theo thẩm quyền. (Theo biên bản giao vật chứng ngày 15/ 01/2018)

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo K’ Brọi phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáophần có liên quan./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HSST ngày 26/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về