Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2018/TLST-HNGĐ ngày 25/12/2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019; quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29/01/2019; thông báo về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa ngày 28/02/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thu H, sinh năm: 1987

2. Bị đơn: Anh Đoàn Quang M, sinh năm: 1980

ĐKHKTT và chỗ ở: Phố B, tổ 27, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình. (Các đương sự vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*) Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2018, lời khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình, thì nguyên đơn là chị Vũ Thị Thu H trình bày và có yêu cầu cụ thể như sau:

Chị và anh Đoàn Quang M tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện K, tỉnh Thái Bình ngày 09/01/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi chửi nhau, có một vài lần chị bị anh M đánh làm cho cuộc sống ngày càng căng thẳng. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh M hay ghen tuông vô cớ. Chị và anh M đã nhiều lần nói chuyện với nhau, gia đình hai bên nhiều lần khuyên bảo, hòa giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng không giảm mà ngày càng thêm trầm trọng, đến tháng 5/2017 vợ chồng ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đoàn Quang M.

Về con chung: Chị và anh M có 02 con chung là Đoàn Vũ Ngọc H, sinh ngày 11/10/2010 và Đoàn Trí D, sinh ngày 14/10/2015, hiện đang ở cùng vợ chồng. Ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con, yêu cầu anh M cấp dưỡng cho mỗi con 1.500.000đ/tháng (hai con là 3.000.000đ/tháng). Hiện nay chị là Điều dưỡng viên tại Bệnh viên đa khoa tỉnh Thái Bình, thu nhập bình quân khoảng 10.000.000 đồng/tháng, chị có chỗ ở, mẹ đẻ chị ở cùng chị nên sẽ hỗ trợ chị trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc các con, chị có đủ điều kiện để nuôi con, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con. Mặt khác, anh M đi làm thời gian không cố định, thu nhập không ổn định nên không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dạy các con.

Về tài sản chung: Chị và anh M tự phân chia tài sản chung, vợ chồng không nợ ai tài sản gì, cũng không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

*) Bị đơn là anh Đoàn Quang M trình bày:

Anh và chị Vũ Thị Thu H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện K, tỉnh Thái Bình ngày 09/01/2010. Trong quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau, bản thân anh có lỗi là vô tâm, chưa chăm sóc vợ con và gia đình chu đáo và hay ghen tuông. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Đã nhiều lần anh chị nói chuyện với nhau để hàn gắn tình cảm nhưng mâu thuẫn không được khắc phục mà ngày càng trầm trọng hơn, vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2017 đến nay. Chị H xin ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn vì anh vẫn còn tình cảm với chị H, anh muốn đoàn tụ.

Anh và chị H có hai con chung là Đoàn Vũ Ngọc H, sinh ngày 11/10/2010 và Đoàn Trí D, sinh ngày 14/10/2015, hiện đang ở cùng anh chị. Nếu phải ly hôn thì anh nhất trí để chị H được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con, anh có trách nhiệm cấp dưỡng cho các con theo quy định của pháp luật.

Anh và chị H thỏa thuận và tự phân chia tài sản chung, không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

*) Đại diện chính quyền địa phương nơi chị H và anh M cư trú cung cấp thông tin như sau:

Chị Vũ Thị Thu H và anh Đoàn Quang H có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại tổ 27, phường L, thành phố T. Quá trình chung sống vợ chồng không có biểu hiện mâu thuẫn gì, anh M đi làm xa nhà đến cuối tuần mới về, địa phương thấy vợ chồng không xảy ra cãi vã hay đánh đập nhau mà theo dư luận thì anh M hay ghen, cuộc sống chung của vợ chồng đã trục trặc từ lâu, khoảng 01 năm trước vợ chồng đã có ý định bán nhà vì không hạnh phúc. Nay chị H xin ly hôn anh M đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Chị H và anh M có 02 con chung đang ở cùng vợ chồng, nếu ly hôn địa phương đề nghị giao cả hai con cho chị H trưc tiếp nuôi dưỡng vì chị H có công việc ổn định, có thời gian chăm sóc các con. Còn anh M đi làm xa cuối tuần mới về nhà nên không có điều kiện nuôi dạy và chăm sóc các con.

Chị H và anh M có tài sản chung là nhà đất tại đường B, tổ 27, phường L, thành phố T. Ngoài ra vợ chồng còn tài sản chung khác, có nợ chung hay không thì địa phương không nắm được.

*) Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến tại phiên tòa giải quyết vụ án dân sự:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của các đương sự đều tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 147; 203; 235; 238; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51; 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điều 26; điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016:

+ Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Thu H được ly hôn anh Đoàn Quang M.

+ Về nuôi con chung: Xử giao con Đoàn Vũ Ngọc H, sinh ngày 11/10/2010 và Đoàn Trí D, sinh ngày 14/10/2015 cho chị Vũ Thị Thu H được trực tiếp nuôi dưỡng, buộc anh Đoàn Quang M phải cấp dưỡng cho mỗi con 1.500.000 đồng/tháng (hai con là 3.000.000 đồng/tháng) kể từ tháng 3/2019 cho đến khi con tròn 18 tuổi.

+ Về tài sản chung: Chị H và anh M tự giải quyết về tài sản, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

+ Các đương sự phải nộp án phí theo quy định.

+ Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa nhưng nguyên đơn là chị Vũ Thị Thu H có đơn xin vắng mặt, bị đơn là anh Đoàn Quang M không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử trong trường hợp vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Hôn nhân giữa chị Vũ Thị Thu H và anh Đoàn Quang M được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi chửi nhau, một vài lần chị Hbị anh M đánh. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, do anh M hay ghen tuông. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện, gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đến tháng 5/2017 vợ chồng ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Anh M muốn đoàn tụ nhưng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm với chị H. Như vậy, mâu thuẫn giữa chị H và anh M là có thật và ngày càng căng thẳng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Vũ Thị Thu H được ly hôn anh Đoàn Quang M là đúng pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Chị H và anh M có 02 con chung là Đoàn Vũ Ngọc H, sinh ngày 11/10/2010 và Đoàn Trí D, sinh ngày 14/10/2015, hiện cả hai con đang ở cùng vợ chồng. Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của chị H, Hội đồng xét xử thấy: Chị H có chỗ ở, có việc làm và thu nhập ổn định, mẹ đẻ chị H sẽ hỗ trợ chị trong việc nuôi dạy và chăm sóc các con. Mặt khác, anh M đi làm xa cuối tuần mới về nhà nên không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dạy và chăm sóc con, anh M đề nghị Tòa án giao cả hai con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, cần giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng hai con và anh buộc anh M phải cấp dưỡng cho con là phù hợp tại các điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của con.

[4] Về tài sản chung: Chị H và anh M tự phân chia tài sản chung, vợ chồng không nợ ai tài sản gì, cũng không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: các đương sự phải nộp án phí theo quy định.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Căn cứ nhận xét trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 147; 203; 235; 238; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51; 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điều 26; điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Thu H được ly hôn anh Đoàn Quang M.

2. Về nuôi con chung: Xử giao con Đoàn Vũ Ngọc H, sinh ngày 11/10/2010 và Đoàn Trí D, sinh ngày 14/10/2015 cho chị Vũ Thị Thu H được trực tiếp nuôi dưỡng, anh M phải cấp dưỡng cho mỗi con 1.500.000 đồng/tháng (hai con là 3.000.000 đồng/tháng) kể từ tháng 3/2019 cho đến khi con tròn 18 tuổi.

Chị H và anh M có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

4.1. Chị Vũ Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị Hà đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu tạm ứng án phí số 0007387 ngày 25/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T thành án phí.

4.2. Anh Đoàn Quang M phải nộp 300.000 đồng án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. 

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hànhán dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về