Bản án 07/2016/HCPT ngày 25/08/2016 về quyết định cưỡng chế trái pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 07/2016/HCPT NGÀY 25/08/2016 VỀ QUYẾT ĐỊNH CƯỠNG CHẾ TRÁI PHÁP LUẬT 

Ngày 25/8/2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 05/2016/HCPT ngày 04/7/2016 đối với bản án hành chính sơ thẩm số 02/2016/HCST ngày 23/05/2016 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An, do có kháng cáo của ông NLQ1 là người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện.

- Người khởi kiện: Anh Sầm Văn H. Sinh năm 1988. Vắng mặt

Người đại diện theo ủy quyền: Ông NLQ1 - Có mặt

Đều trú tại: Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An - Ông Ngô Đức Thuận.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh H - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An - Có mặt

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện:

1. Luật sư Nguyễn Thức G

2. Luật sư Phan Thị Tú G1

Đều thuộc văn phòng Luật sư Thiên Thanh - Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An, đều có mặt tại phiên toà

- Người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan:

1. Ông NLQ1 - Có mặt

2. Bà NLQ2 - Có mặt

3. Chị NLQ3 - Vắng mặt

Uỷ quyền cho bà NLQ2, có mặt

Đều trú tại: Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

4. UBND xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn H. Chức vụ: Chủ tịch UBND xã - Có mặt

NHẬN THẤY 

Theo bản án số 02/2016/HCST ngày 23/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An thì vụ án có nội dung như sau:

Theo đơn khởi kiện của anh Sầm Văn H và lời khai của người đại diện theo ủy quyền - Ông NLQ1 trình bày: Sau khi anh Sầm Văn H kết hôn với chị NLQ3 thì có nhu cầu ra ở riêng, nên vào ngày 08/8/2010, anh Sầm Văn H cùng với bố là ông NLQ1 đã dựng một ngôi nhà tre, mái lợp Proximang, diện tích khoảng 40m2  trên thửa đất của ông NLQ1 thừa hưởng do cha ông để lại. Sau đó UBND xã C, huyện Q đã lập biên bản vi phạm về việc dựng nhà trái phép và ngày 20/8/2010, chủ tịch UBND xã C đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 42/QĐ-XPHC đối với ông NLQ1. Do không đồng ý với Quyết định xử phạt nên ông H đã khiếu nại đến nhiều cơ quan và nhiều cấp chính chính quyền. Đến ngày 18/4/2014, vợ chồng anh Hòa đi làm về không thấy nhà và các tài sản của gia đình và được biết UBND huyện Q đã tháo dỡ ngôi nhà và lấy đi toàn bộ tài sản của gia đình. Trước đó thì vợ chồng anh Hòa không nhận được văn bản, giấy tờ gì của chính quyền địa phương. Vì vậy, anh Hòa khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Q yêu cầu xử: Việc cưỡng chế của UBND huyện Q vào ngày 18/ 4/ 2014 là trái pháp luật, yêu cầu UBND huyện Q trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại cho gia đình anh Hòa.

Tại phiên tòa, ông NLQ1 yêu cầu: Tuyên bố quyết định cưỡng chế số 07/ QĐ-CC ngày 02/4/2014 của chủ tịch UBND huyện Q là trái pháp luật; buộc UBND huyện Q phải trả lại toàn bộ tài sản của gia đình anh Hòa đã bị thu giữ sau khi cưỡng chế và bồi thường thiệt hại cho gia đình anh Hòa với số tiền là 94.000.000 đồng (Chín mươi tư triệu đồng).

Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND xã C có cùng quan điểm: Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện. Vì: Vào ngày 8/8/2010, ông NLQ1 đã có hành vi dựng nhà trái phép trên khu đất do UBND xã C, huyện Q trực tiếp quản lý nên ngày 10/8/2010 UBND xã C đã lập biên bản vi phạm hành chính. Ngày 20/ 8/2010, Chủ tịch UBND xã C đã ban hành Quyết định số 42/ QĐ-XPHC xử phạt ông NLQ1 số tiền 1.500.000 đồng và buộc gia đình ông NLQ1 phải tháo dỡ ngôi nhà trả lại mặt bằng cho khu đất như ban đầu. Tuy nhiên, gia đình ông H đã không chấp hành các nội dung của Quyết định xử phạt mà làm đơn thư khiếu nại gửi nhiều nơi. Ngày 23/9/2011, chủ tịch UBND xã C đã ban hành quyết định số 135/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại của ông NLQ1. Sau khi nhận quyết định này thì ông H và gia đình không khiếu nại lên cấp trên hay khởi kiện ra Tòa án theo quy định. Đại diện UBND xã C và UBND huyện Q đã tổ chức gặp gỡ, vận động nhiều lần nhưng gia đình ông NLQ1 không tự giác chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, ngày 02/01/2012, UBND xã C đã có Tờ trình số 71/TTr-UBND gửi UBND huyện Q về việc tổ chức cưỡng chế, tháo dỡ công trình nhà dựng trái phép. Căn cứ vào hồ sơ xử lý đối với người có hành vi vi phạm, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012Nghị định số 166/2013/NĐ-CP  ngày 12/11/2013. Ngày 02/4/2014, Chủ tịch UBND huyện Q đã ban hành Quyết định số 07/QĐ-CC về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đó là tháo dỡ ngôi nhà do ông NLQ1 dựng trái pháp luật.

Với nội dung trên, bản án sơ thẩm số 02/2016/HCST ngày 23/5/2016 Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An quyết định:

Áp dụng: Căn cứ vào các điều 28, 29 và 163 của Luật tố tụng hành chính; Các điều 86, 87 và 88 của Luật xử lý vi phạm hành chính; Điều 604 Bộ luật Dân sự. Tuyên xử: Bác yêu cầu của anh Sầm Văn H về:

- Yêu cầu tuyên bố Quyết định cưỡng chế số 07/ QĐ-CC ngày 02/4/2014 của Chủ tịch UBND huyện Q, tỉnh Nghệ An là trái pháp luật.

- Yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định cưỡng chế trái pháp luật gây ra.

- Không xem xét yêu cầu trả lại tài sản cho gia đình anh Sầm Văn H đã bị đoàn cưỡng chế UBND huyện Q niêm phong giao cho UBND xã C quản lý.

Về án phí:

- Buộc anh Sầm Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.

- Buộc anh Sầm Văn H phải chịu 4.700.000 đồng (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng) án phí về dân sự sơ thẩm.

Ngày 02/6/2016, ông NLQ1 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo không đồng ý toàn bộ nội dung bản án số 02/2016/HCST ngày 23/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Q với lý do:

- Về nguồn gốc thửa đất anh H dựng nhà để sử dụng có nguồn gốc là của cụ Sầm Văn Phòng. Năm 1945, cụ Phòng mất để lại cho ông Sầm Văn Thạch ở và sử dụng. năm 1989 ông H lấy vợ và được ông Thạch cho ở trên mảnh đất có ngôi nhà cổ để quản lý sử dụng, năm 2010 con trai ông H là anh Sầm Văn H lấy vợ và được ông H cho ra dựng nhà trên mảnh đất có ngôi nhà cổ để sử dụng. Việc ông H cho anh H đất để dựng nhà ở là không vi phạm pháp luật.

- UBND huyện Q và UBND xã C cho rằng thửa đất trên bị tịch thu theo Luật cải cách ruộng đất nhưng không trả lời được thửa đất bị chính quyền tịch thu thời điểm nào, tịch thu của người nào và có văn bản tịch thu hay không?

- Toà án cấp sơ thẩm xác định không đúng đối tượng khởi kiện: Anh Sầm Văn H khởi kiện hành vi của UBND huyện Q về việc tháo dỡ nhà và đưa hết đồ đạc của anh đi nơi khác mà không có bất kỳ thông báo nào cho anh H. Như vậy đây là vụ án hành chính khởi kiện hành vi hành chính chứ không phải là khởi kiện quyết định hành chính. Bên cạnh đó Quyết định cưỡng chế số 07/QĐ-CC ngày 02/4/2014 của UBND huyện Q được ban hành không đúng đối tượng, vì đối tượng bị cưỡng chế là ngôi nhà của anh Sầm Văn H trong khi đó đối tượng bị cưỡng chế lại là ông NLQ1.

- Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm tính toán lại phần án phí dân sự trong vụ án hành chính.

Vì vậy, ông NLQ1 yêu cầu hủy bản án sơ thẩm vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, điều tra xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án.

Tại phiên toà, ông NLQ1 vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện cho rằng: Ngôi nhà cấp 4 do ông H và anh H xây dựng trên phần đất do cha ông để lại là hợp pháp. Việc UBND huyện Q ra Quyết định cưỡng chế và tháo dỡ ngôi nhà đó là trái pháp luật. Anh H khởi kiện hành vi hành vi hành chính như Toà án nhân dân huyện Q lại xét xử quyết định hành chính là không đúng đối tượng khởi kiện. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm số 02/2016/HCST ngày 23/5/2016 của Toà án nhân dân huyện Q để cấp sơ thẩm xét xử lại, đảm bảo quyền lợi của anh Sầm Văn H và ông NLQ1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Cấp phúc thẩm thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định Luật tố tụng hành chính và đảm bảo sự bình đẳng của các bên khi tranh tụng tại phiên toà. Đối với người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quy định tại Điều 55, Điều 57, Điều 58, Điều 153 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015. Toà án đảm bảo cho các đương sự thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong quá trình tố tụng.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 241 LTTHC năm 2015 bác kháng cáo của ông NLQ1, giữ nguyên bản án sơ thẩm; bổ sung cách tuyên cho đầy đủ: bác số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại là 94.000.000 đồng và buộc anh H phải chịu án phí trong vụ án hành chính; bác yêu cầu của anh H đối với nội dung yêu cầu trả lại tài sản cho gia đình anh bị đoàn cưỡng chế UBND huyện Q niêm phong và giao cho UBND xã C. Do kháng cáo không được chấp nhận nên NLQ1 phải chịu án phí phúc thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ  được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà của các đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có kháng cáo, ý kiến của Luật sư, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa phúc thẩm, người được người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Hội đồng xét xử thấy rằng:

- Về đối tượng khởi kiện:

Ông NLQ1 cho rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xác  định sai đối tượng khởi kiện với lý do: Ngày 24/7/2014, anh H khởi kiện hành vi hành chính của UBND huyện Q về việc cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà do ông NLQ1 và anh H xây dựng trái phép. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ kiện, anh NLQ1 đã thay đổi đối tượng khởi kiện từ việc khởi kiện hành vi hành chính sang yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính số 07/QĐ-HC ngày 02/4/2014 của Chủ tịch UBND huyện Q. Sự thay đổi đối tượng khởi kiện của anh Sầm Văn H và của người được anh H uỷ quyền là ông NLQ1 được thể hiện tại bản tự khai ngày 22/10/2015 (BL246), biên bản lấy lời khai (BL253, 255, 303. 308), biên bản đối thoại (BL316) và ngay tại Toà sơ thẩm ngày 23/5/2016 (BL344-357). Trong các văn bản này, anh H và ông H đều yêu cầu UBND huyện Q trả lại tài sản cho anh H đã bị thu giữ; yêu cầu tuyên bố quyết định cưỡng chế số 07/QĐ-CC ngày 02/4/2014 của Chủ tịch UBND huyện Q, tỉnh Nghệ An là trái pháp luật; yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định cưỡng chế trái pháp luật gây ra.

Xét thấy: Hành vi cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà do ông NLQ1 và anh Sầm Văn H xây dựng trái phép bắt nguồn từ Quyết định hành chính số 07/QĐ-CC ngày 02/4/2014 của Chủ tịch UBND huyện Q. Tại phiên toà, sau khi Hội đồng xét xử giải thích ý nghĩa của việc yêu cầu khởi kiện hành vi hành chính hay quyết định hành chính và đề nghị ông H cho biết lý do anh H khởi kiện hành vi hành chính nhưng sau đó anh H và ông H lại yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính số 07/QĐ-CC thì ông H không trả lời được. Vì vậy, việc Toà án cấp sơ thẩm xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án này là quyết định cưỡng chế số 07 của Chủ tịch UBND huyện Q là có căn cứ và đúng quy định Luật tố tụng hành chính. Kháng cáo của ông H về nội dung này là không có cơ sở để chấp nhận.

- Về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp: Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm, ông NLQ1 cũng như chính quyền xã C đều xác nhận rằng: Nguồn gốc thửa đất mà vợ chồng anh Sầm Văn H dựng nhà tre để ở là của ông Lo Căm P. Ông H cho rằng đây là diện tích đất ông đã được ông P cho để ở và ông có quyền cho con trai ông sử dụng làm nhà. Tuy nhiên, ông H không có bất kỳ tài liệu nào chứng minh cho việc ông Lo Căm P để lại thửa đất trên cho ông.

Đại diện UBND huyện Q cho rằng: nguồn gốc đất và ngôi nhà cổ phế tích là của ông Lo Căm P – nguyên là Tri phủ đã bị Nhà nước tịch thu trong thời kỳ thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1954 -1956.

Năm 2010, anh em họ Lo Khăm có đơn gửi chính quyền địa phương xin được sửa chữa ngôi nhà họ Lo Khăm nhưng không được chính quyền chấp thuận. Vì vậy ông NLQ1 đã có hành vi dựng nhà trái phép trên khu đất mà Nhà nước đã tịch thu do chính quyền đăng quản lý sử dụng.

Thực tế, từ sau khi bị Nhà nước tịch thu, ngôi nhà và mảnh đất Lo Khăm Phòng đã được chính quyền địa phương mà trực tiếp UBND xã Tân Tiến (nay là xã C) quản lý sử dụng. Ngôi nhà này trước đây đã từng là trường học, làm kho hợp tác xã và một phần làm trụ sở UBND xã. Nay khu đất này đã được xây dựng nhà văn hoá cộng đồng bản Hoa Tiến, xã C, huyện Q.

Về vấn đề này , Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo quy định tại điều 1 Nghị Quyết 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đai, tài sản trong thời kỳ cải tạo tại xã hội chủ nghĩa, Do đó Toà án không được thụ lý và giải quyết và xem xét vấn đề này đúng quy định của pháp luật. Như vậy, ông NLQ1 cho rằng mảnh đất này do ông quản lý, sử dụng hợp pháp từ trước tới nay là không có căn cứ:

- Về tính hợp pháp của quyết định bị khởi kiện:

Năm 2010, Họ Lô K có làm đơn xin sửa chữa ngôi nhà phế tích để làm nhà thờ song không được chính quyền cho phép. Sau đó, ông H tự ý xây dựng nhà trái phép trên mảnh đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của UBND xã C. Vì vậy, ngày 10/08/2010 UBND xã C đã lập Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai và yêu cầu ông H phải tháo dỡ công trình đang xây dựng. Do ông H không chấp hành nên ngày 20/8/2014 Chủ tịch UBND xã C đã ban hành quyết định 42/QĐ-XPHC xử phạt ông H 1.500.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Quyết định này ông H đã khiếu nại và được Chủ tịch UBND xã C ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 135/QĐ-UBND ngày 23/9/2011. Sau khi được Chủ tịch UBND xã C giải quyết khiếu nại, ông H không khiếu nại và cũng không khởi kiện ra toà. Vì vậy quyết định này đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm thi hành quyết định thuộc về ông NLQ1.

Do ông H không tự tháo dỡ nhà dựng trái phép nên Chủ tịch UBND huyện Q ban hành Quyết định số 07/QĐ-CC ngày 02/2/2014 về việc tổ chức cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà dựng trái phép của ông NLQ1 là đúng đối tượng.

Tại phiên toà phúc thẩm, UBND xã C khẳng đinh: UBND xã đã nhiều lần gửi các giấy tờ cho anh H để giải quyết vụ việc nhưng anh H lẩn tránh nên UBND xã đã thông báo bằng văn bản việc cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà cho Hiền. Tại phiên toà hôm nay, ông H cũng thừa nhận đã nhận được các văn bản của xã giao.

Như vậy, anh Sầm Văn H cho rằng anh không biết việc cưỡng chế là không đúng sự thật. Mặt khác, trong giai đoạn ông H dựng nhà trái phép thì vợ chồng anh H đang ở chung với ông H (chưa tách hộ). Ông H là chủ hộ gia đình và phải chịu trách nhiệm về hành vi dựng nhà trái phép.

Do đó, kháng cáo của ông NLQ1 về nội dung Quyết định cưỡng chế số 07 của Chủ tịch UBND xã Q không đúng đối tượng là không có căn cứ.

- Về yêu cầu đòi lại tài sản của anh Sầm Văn H: Việc tổ chức cưỡng chế và niêm phong lại tài sản của đoàn cưỡng chế được thực hiện đúng quy định pháp luật. UBND xã C đã nhiều lần thông báo cho ông NLQ1 và anh Sầm Văn H đến nhận lại tài sản nhưng ông H và anh H không chấp hành. Nay anh Sầm Văn H và gia đình muốn nhận lại tài sản thì trực tiếp liên hệ với UBND xã C để làm thủ tục nhận lại tài sản đã bị niêm phong.

- Về việc yêu cầu xem xét, tính toán lại án phí trong vụ án hành chính. Hội đồng xét xử thấy răng: anh H yêu  cầu UBND huyện  Q bồi thường94.000.000 đồng là bồi thường tiền tổn thất về tài sản và các khoản khác bao gồm: chi phí ở trọ, tiền công đi lại khiếu nại, khởi kiện với t ổng số tiền là 94.000.000 đồng.

Tại phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã giải thích rõ cho ông H là: Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông được Toà chấp nhận toàn bộ 94.000.000 đồng (chín tư triệu) thì ông không phải chịu án phí. Nếu yêu cầu của ông không được Toà chấp nhận thì ông phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật về án phí, lệ phí Toà án. Ông H đã hiểu rõ và vẫn yêu cầu Toà án xem xét buộc UBND huyện bồi thường toàn bộ thiệt hại 94.000.000 (chín tư triệu) đồng.

Xét thấy: Do quyết định cưỡng chế số 07/QĐ-UB ngày 02/4/2014 của Chủ tịch UBND huyện Q là đúng pháp luật nên yêu cầu bồi thường thiệt hại 94.000.000 đồng của anh H và ông H là không có căn cứ để chấp nhận.

Do yêu cầu này không được chấp nhận nên theo quy đinh của Pháp lệnh về án phí, lệ phí Toà án, anh H phải chịu án phí bằng 5% số tiền yêu cầu không được Toà án chấp nhận: tức 94.000.000 đồng x 5% = 4.700.000 đồng.

Như vậy, Toà án nhân dân huyện Q buộc anh Sầm Văn H phải chịu 4.700.000 (bốn triệu bảy trăm ngàn) đồng án phí Dân sự sơ thẩm là đúng pháp luật.

Về án phí phúc thẩm: anh Sầm Văn H phải chịu án phí theo quy định tại Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 1 điều 241 Luật tố tụng hành chính 2015

QUYẾT ĐỊNH

Giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm số 02/2016/HCST ngày 23/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Q.

Áp dụng:

Căn cứ vào các điều 30, 32 và 116 và 193 của Luật tố tụng hành chính; Các điều 86, 87 và 88 của Luật xử lý vi phạm hành chính; Điều 604 Bộ luật Dân sự.

Xử: Bác yêu cầu của anh Sầm Văn H về:

- Yêu cầu tuyên bố Quyết định cưỡng chế số 07/ QĐ-CC ngày 02/4/ 2014 của Chủ tịch UBND huyện Q, tỉnh Nghệ An là trái pháp luật.

- Yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định cưỡng chế trái pháp luật gây ra.

- Yêu cầu UBND huyện Q trả lại tài sản đã cưỡng chế cho anh Sầm Văn H. Anh Sầm Văn H có quyền trực tiếp gặp UBND xã C, huyện Q để làm thủ tục nhận lại tài sản đã bị cưỡng chế.

Về án phí:

- Buộc anh Sầm Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm.

- Buộc anh Sầm Văn H phải chịu 4.700.000 đồng (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng) án phí về dân sự sơ thẩm.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

658
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2016/HCPT ngày 25/08/2016 về quyết định cưỡng chế trái pháp luật

Số hiệu:07/2016/HCPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 25/08/2016
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về