Bản án 07/2017/DS-ST ngày 12/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚC YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 07/2017/DS-ST NGÀY 12/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 18/2017/TLST- DS ngày 01 tháng 3 năm 2017 về  việc tranh chấp: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2017/QĐXXST - DS ngày 17 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số:10/2017/QĐST- DS ngày 31 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V

Trụ sở: Tầng 1-7 tòa nhà Thủ Đô, số 72 phố T, phường Đ, quận H, thành phố N.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị H, sinh năm 1990 (Theo văn bản ủy  quyền  số 112/2016/UQ-  CT  ngày  08/01/2016  và  văn  bản  ủy  quyền  số16/2016/ UQ- GĐK- TDTD ngày 10 tháng 8 năm 2016)

Địa chỉ cư trú: Số 60 đường L, phường B, thành phố V, tỉnh P.Bà H có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1955(vắng mặt). Trú tại: Tổ 7, phường T, thị xã P, tỉnh V

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 12 năm 2016 của nguyên đơn và những lời khai tiếp theo người đại điện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần V là bà Lê Thị H trình bày:

Ngày 06 tháng 8 năm 2014, ông  Nguyễn Trung T có ký Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng thương mại Cổ phần V để vay số tiền 30.000.000đ, mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. Ngày 06 tháng 8 năm 2014, V đã đồng ý và cho ông T vay tổng số tiền30.000.000đ. Theo thỏa thuận giữa V và ông Nguyễn Trung T thì lãi xuất khoản vay trên là 35%/năm, tức 2.92% tháng. Phương thức trả nợ: Trả chậm trong vòng12 tháng. Tổng số tiền ông T phải thông toán cho Ngân hàng trong vòng 12 tháng gồm cả gốc và lãi là 36.307.000 đồng. Cụ thể trong 11 tháng đầu mỗi tháng ông T phải trả cho Ngân hàng số tiền là 2.999.000đồng, tháng cuối cùng trả  3.318.000  đồng.  Kỳ thanh  toán  là vào  ngày 01  hàng  tháng, bắt  đầu  từ01/10/2014. Sau khi ký hợp đồng T dụng ông T đã nhận đủ số tiền vay là30.000.000đ. Khi đến kỳ hạn trả nợ ông T đã trả cho Ngân hàng V được 07 lần với tổng số tiền là 23.967.000 đồng trong đó bao gồm trả nợ gốc là 18.930.800 đồng, tiền nợ lãi 5.036.200 đồng. Kể từ ngày 21/12/2015 ông T đã không toán thêm bất cứ khoản nào mặc dù Ngân hàng V đã nhắc nhở nhiều lần. Việc chậm không toán tiền nợ của ông T ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng V, vì vậy Ngân hàng V làm đơn khởi kiện ông T tại Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên để yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T phải hoàn trả Ngân hàng V toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 11/9/2017 là 13.170.190 đồng. Trong đó nợ gốc là11.069.200 đồng và nợ lãi là 2.100.990 đồng

Trong quá trình làm việc ông Nguyễn Trung T không đến Tòa án để làm việc, tại biên bản lấy lời khai ông Nguyễn Trung T trình bày: Ông xác nhận ngày06/8/2014 ông có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP V để vay số tiền là 30.000.000 đồng. Mục đích vay là để tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận giữa các bên thì lãi suất vay là 2,92%/tháng. Phương thức trả nợ: Trả chậm trong vòng 24 tháng, tổng số tiền ông phải thông toán cho Ngân hàng V trong vòng 12 tháng gồm cả gốc và lãi là 36.307.000đồng. Cụ thể trong 11 tháng đầu, mỗi tháng ông phải trả cho Ngân hàng V số tiền là 2.999.000 đồng, tháng cuối cùng trả  3.318.000  đồng.  Kỳ thanh  toán  là vào  ngày 01  hàng  tháng, bắt  đầu  từ01/10/2014.  Sau  khi  ký  hợp  đồng  T  dụng  ông  đã  nhận  đủ  số  tiền  vay  là 30.000.000đ. Khi đến kỳ hạn trả nợ ông đã trả cho Ngân hàng V được 07 lần với tổng số tiền là 23.967.000 đồng. Kể từ ngày 21/12/2015 ông đã không thanh toán thêm bất cứ khoản nào cho Ngân hàng V. Ngân hàng V khởi kiện, ông xác nhận vẫn  còn  nợ  Ngân  hàng  V  số  tiền  là 12.340.000  đồng,  trong  đó  nợ  gốc  là 11.069.200 đồng và  nợ lãi là 1.270.800 đồng. Ông có đề nghị đến ngày cuối cùng của tháng 7 tức ngày 30/7/2017 sẽ thanh toán toàn bộ số tiền còn lại cho Ngân hàng V. Nhưng đến nay ông vẫn chưa thanh toán được bất kỳ khoản tiền

Tại phiên đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa xét xử đã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên trong quá trình tố tụng còn có vi phạm. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên sẽ có tổng hợp kiến nghị bằng văn bản riêng.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.  Bị đơn đã không thực hiện đúng quy định, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án vi phạm khoản 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng  khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều 463, 466, 468, và 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 xử: Buộc ông Nguyễn Trung T có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng toàn bộ khoản nợ Th đến ngày 08/12/2016 là 12.340.000 đồng (trong đó nợ gốc là 11.069.200 đồng, nợ lãi là 1.270.800đồng) và  tiền lãi chậm trả  số tiền gốc 11.069.200đồng theo quy định cho Ngân hàng V.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án ông Nguyễn Trung T phải chịu án án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V là Doanh nghiệp hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được thực hiện các hoạt động trung gian tiền tệ (Kinh doanh Ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ ...) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 06 tháng 8 năm 2014 giữa Ngân hàng V- Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh với ông Nguyễn Trung T có địa chỉ tại Tổ 7, phường Trưng Trắc, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã ký kết Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng số: 20140821-120002-0007 về việc V cho ông T vay số tiền 30.000.000đ với mục đích tiêu dùng. Do ông T vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận đã ký kết ngày 06/8/2014 được quy định tại khoản 3.2 Điều 3 trong Điều khoản điều kiện dành cho khách hàng vay tiêu dùng cá nhân, mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ. Vì vậy quan hệ pháp luật trong vụ án này là tranh chấp Hợp đồng vay tài sản trong lĩnh vực tín dụng và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên theo quy định tại hoản 3 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ

[2]  Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Thư ký phiên tòa thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn nghiêm chỉnh chấp hành theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng, văn bản, quyết định của Tòa án cho ông T nhưng ông T đều không có mặt. Vì vậy Tòa án thị xã Phúc Yên tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]  Về nội dung vụ án: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản: Các đương sự đều xác nhận ngày 06/8/2014 ông Nguyễn Trung T có ký hợp đồng mở thẻ tín dụng với Ngân hàng TMCP V để vay số tiền là 30.000.000 đồng. Mục đích vay là để tiêu dùng cá nhân, theo thỏa thuận giữa các bên thì lãi suất vay là2,92%/tháng, thời hạn vay là 12 tháng. Tổng số tiền ông T phải thanh toán cho Ngân hàng trong vòng 12 tháng gồm cả gốc và lãi là 36.307.000 đồng, trong 11 tháng đầu mỗi tháng ông T phải trả cho Ngân hàng số tiền là 2.999.000 đồng, tháng cuối cùng trả 3.318.000 đồng. Kỳ thanh toán là vào ngày 01 hàng tháng, bắt đầu từ 01/10/2014. Sau khi ký hợp đồng T dụng ông T đã nhận đủ số tiền vay là 30.000.000đ. Khi đến kỳ hạn trả nợ ông đã trả cho Ngân hàng được 07 lần với tổng số tiền là 23.967.000 đồng. Kể từ ngày 21/12/2015 ông T đã vi phạm hợp đồng và ông không thông toán thêm bất cứ khoản nào cho Ngân hàng. Nay ông T xác nhận Th đến ngày 08/12/2016 ông T còn nợ Ngân hàng Thương mại Cổ phần V tổng số tiền là 12.340.000 đồng, trong đó nợ gốc là 11.069.200 đồng và nợ lãi là 1.270.800 đồng. Ngoài ra đại diện V còn đề nghị buộc ông T phải thanh toán cho Ngân hàng V số tiền chậm thanh toán của số tiền nợ gốc còn lại là11.069.200đồng.  Số  tiền  lãi  tính  từ  ngày  khởi  kiện  08/12/2016  đến  ngày11/9/2017 là 11.069.200 x 0.75% x 9 tháng 3 ngày = 830.190đồng.

Quá trình giải quyết Tòa án đã nhiều lần tiến hành báo gọi ông T ra để làm việc tại biên bản lấy lời khai ông xác nhận số tiền còn nợ như Ngân hàng V khởi kiện và ông cam kết đến hết ngày 30/7/2017 ông sẽ thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ cho Ngân hàng V bao gồm cả gốc và lãi. Nhưng ông T đã không thanh toán như đã trình bày. Như vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải có trách nhiệm trả nợ choV tổng số tiền gốc và lãi cộng với số tiền chậm thanh toán trên số tiền nợ gốc.

Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Trung T phải nộp theo quy định của pháp luật. Hoàn trả lại Ngân hàng V số tiền tạm ứng đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 95 Luật các tổ chức T dụng; các Điều 463, 466, 468, và 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử;

[1] Buộc ông Nguyễn Trung T có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần V tổng số tiền 13.170.190 đồng (Mười ba triệu một trăm bảy mươi nghìn, một trăm chín mươi đồng) trong đó nợ gốc là 11.069.200đồng, nợ lãi 2.100.990đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng Thương mại cổ phần V có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Nguyễn Trung T chưa thanh toán số tiền trên thì hàng tháng ông T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2005.

[2] Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Trung T phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm 650.000đồng (sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Ngân hàng Thương Mại cổ phần V được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 308.500đồng theo biên lai số AA/2014/0003495 ngày 27 tháng 2 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phúc Yên.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2017/DS-ST ngày 12/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:07/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về