Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 18/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 180/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXX-ST ngày 13/02/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2019/QĐ-HPT ngày 04/3/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu B, sinh năm 1994, có mặt

Nơi ĐKHKTT: thôn B, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình;

Địa chỉ: Thôn B1, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Bùi Xuân P, sinh năm 1993, vắng mặt;

Địa chỉ: thôn B, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị Thu B trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thu B và anh Bùi Xuân P tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 07/11/2013 tại UBND xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn B, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình và sinh được 01 con. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong tạo lập kinh tế gia đình. Vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh P bỏ đi làm ăn không liên lạc với chị B và cũng không về chung sống cùng mẹ con chị B nữa. Tháng 5 năm 2018 chị B mang theo con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn B1 xã T huyện V sinh sống. Từ khi chị B mang theo con về nhà bố mẹ để đến nay anh P cũng không có ý kiến gì. Nay chị xác định không thể tiếp tục chung sống cùng anh P nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh P.

- Về quan hệ con chung: Chị và anh P có 01 con chung là  Bùi Đình K sinh ngày 25/3/2015 do chị B nuôi dưỡng. Ly hôn chị B có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh  Bùi Xuân P: Vắng mặt tại địa phương nên Tòa án không lấy được lời khai.

- Qua xác minh tại UBND và Công an xã Quang Bình huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình ngày 08/01/2019 cung cấp cho biết: Chị Trần Thị Thu B và anh Bùi Xuân P tự nguyện đăng ký kết hôn và vẫn đăng ký hộ khẩu tại UBND xã Quang Bình. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chị B và anh P chung sống với nhau cùng với bố mẹ anh P ở thôn B xã Q và sinh được 01 con. Anh P hiện đang chạy xe Bắc Nam có khi mấy tháng mới về nhà một lần nhưng không quan tâm tới vợ con. Anh P không thuộc diện phải khai báo tạm vắng nên không làm thủ tục khai báo tạm vắng tại Công an xã Quang Bình.

- Theo người làm chứng là ông Bùi Xuân L sinh năm 1971, trú tại: thôn B xã Q huyện K tỉnh Thái Bình (là bố anh Bùi Xuân P) cho biết: Anh P và chị B tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Bình. Sau khi kết hôn thì vợ chồng anh P chung sống cùng với gia đình ông L. Ông L khẳng định chị B và anh P không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, chị B xin ly hôn gia đình ông không có ý kiến gì. Ly hôn ông đề nghị Tòa án giao con chung cho chị B nuôi dưỡng. Vợ chồng anh P và chị B không có tài sản chung. Trên thực tế vợ chồng chị B và anh P có vay nợ khoảng hơn 01 tỷ đồng do ông L đứng ra vay và trả nợ cho vợ chồng chị B anh P nhưng ông không đòi nợ, không yêu cầu vợ chồng anh P và chị B trả ông số tiền trên. Hiện tại anh P chạy xe Bắc Nam nên ít khi có mặt ở nhà. Gia đình ông đã nhận được các giấy báo của Tòa án về việc báo anh P đến trụ sở Tòa án để giải quyết việc chị B xin ly hôn, ông đã thông tin ngay cho anh P nhưng anh P hiện tại đi làm ăn xa không thể đến Tòa án giải quyết việc ly hôn với chị B được.

Tòa án đã giao Thông báo thụ lý vụ án; Giấy báo; bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ do chị B cung cấp; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho ông Láng để ông L giao cho anh P. Ông L đã nhận các văn bản tố tụng nêu trên của Tòa án và cam kết giao các văn bản trên cho anh P

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng không những tự tước bỏ quyền, nghĩa vụ của mình mà còn thể hiện ý thức chấp hành pháp luật tố tụng dân sự không nghiêm túc, đầy đủ. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho chị B được ly hôn anh  P.

Về quan hệ con chung: Giao con chung Bùi Đình K sinh ngày 25/3/2015 cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận việc chị B không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: nguyên đơn không yêu cầu, bị đơn chưa có lời khai nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, chị B phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị đơn không có mặt. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung, tài sản chung vợ chồng, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị B kết hôn với anh P trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn theo chị B là do anh P không quan tâm đến vợ con, anh P đi đâu không nói cho chị biết cũng không gửi tiền về cho chị nuôi con nên đầu tháng 5/2018 chị B đã mang theo con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn B1 xã T huyện V sinh sống từ đó đến nay. Khi chị B mang con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống anh P cũng không có ý kiến gì, vợ chồng không quan tâm và liên hệ với nhau, bỏ mặc ai muốn sống ra sao thì sống. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị B và anh P là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải chấp nhận xử cho chị B được ly hôn anh P là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Chị B và anh P có 01 con chung là Bùi Đình K sinh ngày 25/3/2015, hiện đang do chị B nuôi dưỡng. Ly hôn chị B có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung, anh P chưa có lời khai tại Tòa án về người trực tiếp nuôi dưỡng và việc cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy cần chấp nhận ý kiến của chị B là giao con chung cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng và chấp nhận việc chị B không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh P chưa có lời khai tại Tòa án, nên chưa có cơ sở xem xét giải quyết. Vì vậy Tòa án không đặt ra giải quyết về quan hệ tài sản.

[6] Về án phí: Chị B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Thu B được ly hôn anh Bùi Xuân P.

2.Về quan hệ con chung: Giao con chung Bùi Đình K sinh ngày 25/3/2015 cho chị Trần Thị Thu B trực tiếp nuôi dưỡng. Chị B không yêu cầu anh Bùi Xuân P cấp dưỡng nuôi con. Anh P có quyền và nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung.

3.Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4.Về án phí: Chị Trần Thị Thu B phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001194 ngày 17/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị Trần Thị Thu B đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

5.Về quyển kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 18/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về