Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 19/02/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 19 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 813/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp 2, xã A, huyện C, tỉnh An Giang (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Hoàng Thị H1, sinh năm 1991; địa chỉ: ấp 2, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; địa chỉ liên lạc: tiểu khu 9, thị trấn V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh và chị H1 quen biết nhau có tổ chức lễ cưới vào năm 2010 và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Anh chị sống chung hạnh phúc đến tháng 4 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xuyên cự cãi, tính tình không phù hợp nhau. Anh chị không còn sống chung từ đó đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn anh yêu cầu ly hôn với chị H1.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Minh L, sinh ngày 30.9.2010, Nguyễn Ngọc H2, sinh ngày 16.01.2014. Hiện cháu L đang sống chung với anh H, cháu Ngọc H2 đang sống chung với chị H1. Khi ly hôn, anh đồng ý để chị H1 được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Ngọc H2, anh yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi cháu Minh L, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

Tại tờ tường trình ngày 10.01.2019, chị Hoàng Thị H1 trình bày: Chị cũng nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án, thông báo hòa giải, vì tình hình sức khỏe không cho phép chị vào để tham gia giải quyết sự việc nên chị xin vắng mặt trong các buổi xét xử.

Chị Hoàng Thị H1 đã được tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị vắng mặt, cũng như không tham gia các phiên hòa giải.

Tại phiên tòa, anh H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn H khởi kiện chị Hoàng Thị H1 cư trú ấp 2, xã A, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện C thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Hoàng Thị H1 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Hoàng Thị H1 là có căn cứ.

[2]. Về hôn nhân: Anh H và chị H1 sống chung với nhau vào năm 2010 anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, tỉnh An Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống do anh, chị bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau. Anh và chị H1 không còn sống chung từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay, như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa anh H, chị H1 không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, anh H yêu cầu ly hôn với chị H1, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình “ Khi vợ hoặc chồng xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn….” Tại phiên tòa, anh H xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu ly hôn của anh H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H.

[3]. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Minh L, sinh ngày 30.9.2010, Nguyễn Ngọc H2, sinh ngày 16.01.2014. Hiện cháu L đang sống chung với anh H, cháu Ngọc H2 đang sống chung với chị H1. Khi ly hôn anh đồng ý để chị H1 được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Ngọc H2, anh yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi cháu Minh L, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên, hiện nay cháu H2 sống ổn định với chị H1 vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần, anh H cũng không có ý kiến phản đối. Trong quá trình làm việc, Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến và nguyện vọng của cháu Minh L thì cháu có nguyện vọng sống với H, chị H1 cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Minh L cho anh H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu Ngọc H2 cho chị H1 tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “ Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con ; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Văn H trình bày không ai phải cấp dưỡng nuôi con do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về nợ chung: Anh Nguyễn Văn H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận anh H xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh H và chị H1 thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Văn H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 53, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn H.

- Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn H được ly hôn với chị Hoàng Thị H1.

- Về con chung: Anh Nguyễn Văn H được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Minh Luận, sinh ngày 30.9.2010. Chị Hoàng Thị H1 không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị Hoàng Thị H1 được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc H2, sinh ngày 16.01.2014. Anh Nguyễn Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh H, chị H1 cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh chị trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Anh Nguyễn Văn H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận anh H xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh H và chị H1 thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Anh Nguyễn Văn H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 000045 ngày 18.12.2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang. Anh H không phải nộp thêm.

Đương sự có mặt tham gia phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 19/02/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về