Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH OAI, TP. HÀ NỘI         

BẢN ÁN 07/2019/ HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 25 tháng 01 năm 2019 tại: Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Oai - TP. Hà Nội; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:  235/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Chu Thị Nh; sinh năm 1990

Bị đơn:  Anh Lã Duy H, sinh  năm 1989

Trú tại: Thôn  My D, xã Thanh M, huyện Thanh O, TP. Hà N.

Tại phiên tòa: Chị Nh có mặt, anh H vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nh trình bày: Chị có tự nguyện kết hôn với anh H  tại ủy ban nhân dân xã Thanh M, Thanh O, TP. Hà N năm 2013. Quá trình chung sống thời gian đầu bình thường, vợ chồng sau khi cưới thì về nhà anh H  tại xã Thanh M làm ăn sinh sống, nhưng do anh H là người không chịu làm ăn, vô trách nhiệm với vợ con nay đây mai đó nên vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn. Chị Nh đã ly thân với anh H 03 năm nay. Xét thấy vợ chồng tình cảm không còn nên xin được ly hôn với anh H .

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên là Lã Thị Hải A, sinh ngày 25/10/2013.  Chị Nh xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh H trợ cấp nuôi con chung.

Tài sản chung, công nợ chung: không có

Quan điểm của bị đơn: Quá trình giải quyết không tiến hành lấy được lời khai của anh H  vì hiện tại anh H  không có mặt tại địa phương, qua xác minh mẹ đẻ của anh H  là bà Nguyễn Thị Huê cho biết. Anh H  có hộ khẩu và thường trú tại địa phương xã Thanh Mai, tuy nhiên từ thời điểm chị Nh làm đơn ly hôn với anh H  cuối năm 2018 thì anh H  có biết và đã đi vào Nam làm ăn,  bà H đã nhân được các giấy triệu tập của Tòa án và báo cho Hanh biết nhưng Hanh có quan điểm không về, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Anh H   cũng không cung cấp địa chỉ hiện tại anh H  đang cư trú ở đâu vì chỗ làm không ổn định. Bà Huê vẫn liên lạc được qua điện thoại với anh H  và nhận trách nhiệm thông báo của Tòa án cho anh H được biết để đến Tòa án làm việc.

Tại phiên tòa: Chị Nh vẫn giữ nguyên các quan điểm khởi kiện và yêu cầu như trên.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến về quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã làm đúng qui trình tố tụng, không có vi phạm gì, đã xác định đúng tư cách của đương sự, giải quyết đúng thời hạn của vụ án.

Đối với nguyên đơn: Chấp hành đúng qui định tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Đối với bị đơn: Đã được triệu tập hợp lệ đến giải quyết vụ án nhiều lần và được triệu tập và tham gia phiên tòa đến lần thứ hai vẫn vắng mặt là vi phạm qui định của bộ luật tố tụng.

Tại phiên tòa: HĐXX đã thực hiện đúng các thủ tục, qui trình và thực hiện xét xử công tâm khách quan.

Về đường lối: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Chu Thị Nh được ly hôn với anh Lã Duy H .

Về con chung: Giao chị Nh được nuôi 01 con chung, và chấp  nhận yêu cầu của chị  Nh không yêu cầu anh H trợ cấp nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung:  Cần tách phần tài sản và công nợ chung thành vụ án khác khi có đủ điều kiện và yêu cầu của đương sự.

-Về án phí: Chị  Nh chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Đối với bị đơn đã được tòa án tống đạt văn bản và triệu tập nhiều lần đến giải quyết nhưng vắng mặt, tại phiên tòa đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai tham gia nhưng vẫn vắng mặt không lý do, Tòa án đã quyết định mở phiên tòa xét xử vụ án là đúng qui định pháp luật:

Xét quan hệ hôn nhân: Chị Nh và anh H  kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã có thẩm quyền. Đây là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và đúng pháp luật.

Về yêu cầu xin ly hôn: Trong quá trình chung sống chị Nh trình bày đã phát sinh mâu thuẫn xuất phát việc chung sống của anh chị không hòa hợp, anh  H là người không có trách nhiệm với gia đình, không chăm lo cho vợ con, chơi bời, chị Nh đã sống ly thân với anh H  từ năm 2015 đến nay và không còn tình cảm với anh  H nữa. Phía anh H  đã nhiều lần được Tòa án báo gọi đến để trình bày quan điểm và để tiến hành hòa giải nhưng anh H  vắng mặt. Vì vậy cần chấp yêu cầu xin ly hôn của chị  Nh là phù hợp luật hôn nhân gia đình để giải phóng cho hai người.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên: Lã Thị Hải A sinh ngày25/10/2013; Khi ly hôn chị Nh xin được tiếp tục nuôi  con chung, không yêu cầu anh  Hanh trợ cấp nuôi con chung. Cần chấp nhận yêu cầu nuôi  con chung và từ chối trợ cấp nuôi con chung của chị Nh cho đến khi con chung trưởng thành hoặc cho đến khi các bên có yêu cầu mới về người trực tiếp nuôi con và trợ cấp nuôi con chung là phù hợp và không trái pháp luật. Vì hiện tại anh H  thường xuyên vắng mặt tại địa phương nên không đẩm bảo việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Anh  Hanh có quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo pháp luật.

Về tài sản chung, công nợ chung  chị Nh trình bày không có công nợ và tài sản chung vợ chồng, tuy nhiên phía anh  H chưa khai báo về vấn đề tài sản chung và công nợ chung vợ chồng. Xét thấy cần tách phần tài sản chung, công nợ của vợ chồng để giải quyết trong vụ án khác khi các bên có yêu cầu giải quyết tài sản sau ly hôn để bảo vệ quyền lợi chung cho đương sự là đúng pháp luật.

- Án phí:  Chị Nh chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định pháp luật

Căn cứ nhận định trên!

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng pháp luật: Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình, điều 147, điều 273, 271 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án.

Xử cho  chị  Chu Thị Nh được ly hôn anh Lã Duy H .

Về con chung: Giao chị Nh tiếp tục nuôi dưỡng con chung là cháu: Lã Thị Hải A sinh ngày 25/10/2013 không yêu cầu anh H  trợ cấp nuôi con chung cho đến khi con chung trưởng thành hoặc cho đến khi các bên có yêu cầu mới về người trực tiếp nuôi con và trợ cấp nuôi con chung là phù hợp pháp luật vì hiện tại anh H  vắng mặt tại địa phương. Anh H  có quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo pháp luật.

Tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Tách phần tài sản chung, công nợ vợ chồng ( nếu có) thành vụ án chia tài sản chung sau ly hôn để giải quyết độc lập với vụ án này khi có đủ điều kiện và nếu có yêu cầu để bảo đảm quyền lợi cho đương sự vắng mặt.

- Án phí: Chị Nh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nh đã nộp theo biên lai thu số 02424 ngày24/12/2018 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. Chị  Nh đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án sơ thẩm, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về