Bản án 07/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

          TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2019/HSST-QĐ ngày 29/8/2019 đối với bị cáo:

Võ Ngọc H, sinh năm 1971 tại xã P, huyện T, tỉnh B; nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện V, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Ngọc H (chết) và bà Trần Thị C, sinh năm: 1940; vợ: Đã ly hôn, hiện đang sống chung như vợ chồng với chị Đoàn Thị L, sinh năm 1981; có 03 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại - có mặt.

- Bị hại: Ông Đinh Bá E, sinh năm: 1952 - có mặt

Địa chỉ: Làng S, xã C, huyện V, tỉnh B 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Thị T, sinh năm:1969 - vắng mặt (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

Đa chỉ: Làng H, xã C, huyện V, tỉnh B

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Lê Tôn Nữ Kim Yến là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B - có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Đinh Bá C, sinh năm: 1981 - có mặt

Chị Đoàn Thị L, sinh năm: 1981 - có mặt

Đồng địa chỉ: Làng S, xã C, huyện V, tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/3/2019, bị cáo Võ Ngọc H đi làm về không thấy chị Đoàn Thị L (sống chung như vợ chồng với bị cáo) ở nhà nên bị cáo đến làng S, xã C để tìm thì thấy chị L cùng với anh Đinh Bá C và ông Đoàn Văn L đang ngồi uống rượu tại nhà ông Đinh Bá E. H được mọi người mời vào nhà cùng uống rượu. Trong lúc ngồi uống rượu tại nhà ông E, H nói chị L đi về nhà, nhưng chị L không về. H và chị L kình cãi qua lại rồi H dùng tay tát vào mặt chị L. Thấy vậy, ông E la H, yêu cầu H và chị L ra ngoài, không được kình cãi trong nhà ông E. H không nghe mà tiếp tục kình cãi với chị L, nên ông E tức giận liền lấy cây gậy chọt vào người H và đuổi H ra khỏi nhà. H bỏ ra ngoài, đi xuống nhà bà Lê Thị T rồi lẻn vào hiên nhà bếp lấy 01 cây rựa của bà T hay dùng để phát chồi keo rồi quay lại nhà ông E. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19/3/2019, H cầm cây rựa đi đến nhà ông E, H đứng ngay hiên nhà chỉ cây rựa vào trong nhà và tiếp tục chửi. Mọi người thấy H cầm rựa trên tay nên sợ không ai dám ra. Ông E nghe H cầm cây rựa đến nhà chửi, nên tức giận đi đến chỗ H đang đứng rồi dùng hai tay đẩy H ra. H cầm rựa đưa lên cao chém về phía ông E trúng vào tay trái ông E, ông E ngã xuống nền nhà. Thấy vậy, H bỏ chạy về đến nhà ông Trần Văn H ở làng H, xã C, huyện V, tỉnh B nhờ ông H trả cây rựa cho bà T, sau đó H bỏ về nhà của H tại thôn T, xã C, huyện V, tỉnh B. Còn ông E được người nhà đưa đi cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định đến ngày 27/3/2019 thì xuất viện.

Ti Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 95/2019/PY-TgT ngày 06/5/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định, kết luận: Vết thương phức tạp cẳng tay trái, gây đứt gân cơ duỗi cổ tay quay dài, duỗi ngón I, II, III, IV, V; gãy đầu dưới hai xương cẳng tay đã phẫu thuật khâu phục hồi gân duỗi cổ tay quay dài, gân duỗi ngón I, II, III, IV, V, khâu vết thương, cố định cẳng tay bằng bột. Hiện mặt sau 1/3 dưới cẳng tay trái vết thương để lại sẹo dính, đau kích thước (7x 0,5)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 24% (Hai mươi bốn phần trăm).

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Canh lập biên bản tạm giữ 01 (Một) cây rựa tổng kích thước 82cm. Trong đó, lưỡi có kích thước (24x05)cm, cán bằng tre dài 58cm và có buộc sợi dây cao su màu đen ở một đầu cán là vật chứng liên quan đến vụ án.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Ngọc H thừa nhận đã dùng rựa chém bị hại gây thương tích, nguyên nhân là do trong lúc ngồi uống rượu tại nhà bị hại, bị cáo và chị L có mâu thuẫn với nhau, bị cáo đánh chị L thì bị ông E đuổi ra khỏi nhà đồng thời dùng gậy chọt vào người bị cáo nên bị cáo đến nhà bà T lén lấy cây rựa rồi quay trở lại mục đích là để đánh ông E. Trong lúc hai bên kình cải, ông E dùng tay đẩy bị cáo nên bị cáo cầm rựa đưa lên cao chém từ trên xuống trúng vào tay trái của ông E gây thương tích. Đến nay, bị cáo chưa bồi thường thiệt hại cho ông E vì lý do gia đình khó khăn, không có tiền để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.

Tại phiên tòa bị hại Đinh Bá E thống nhất với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát và yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bị hại với số tiền là 71.130.000đ (Bảy mươi mốt triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 07/CT-VKSVC ngày 17/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Võ Ngọc H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Ngọc H. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thành khẩn khai báo; bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Nên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Ngọc H mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Về dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự 2015, Nghị quyết 03/3006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bị hại tiền viện phí có hóa đơn chứng từ hợp pháp, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc cho bị hại trong thời gian nằm viện, tiền bù đắp tổn thất về tinh thần từ 30 đến 40 tháng lương cơ sở. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trợ giúp viên pháp lý bà Lê Tôn Nữ Kim Yến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Tòa án xét xử đúng pháp luật; về bồi thường dân sự thì đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại gồm các khoản: Tiền viện phí: 730.000đ; tiền tàu xe đi lại là 300.000đ; thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại là 8 ngày x 150.000đ/ngày = 1.200.000đ; thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị và phục hồi sức khỏe từ ngày 20/3/2019 đến ngày 20/5/2019 là 62 ngày x 150.000đ/ngày = 9.300.000đ; tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: 40 tháng x 1.490.000đ = 59.600.000đ. Tổng số tiền yêu cầu bồi thưởng là 71.130.000đ (Bảy mươi mốt triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì về nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không bồi thường thiệt hại cho bị hại vì không có tiền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Canh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trước đây tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 19/3/2019, bị cáo đến làng S, xã C để tìm chị L thì thấy chị L, anh C cùng với một số người khác đang ngồi uống rượu tại nhà ông E. Bị cáo vào nhà ông E thì được anh C mời uống rượu. Trong lúc uống, giữa bị cáo và chị L xảy ra mâu thuẫn, bị cáo đánh chị L trong nhà của ông E nên bị ông E đuổi khỏi nhà đồng thời dùng gậy chọt vào người bị cáo. Bị cáo chạy sang nhà bà Lê Thị T lén lấy 01 cây rựa của bà T rồi quay trở lại với mục đích là để đánh ông E. Trong lúc kình cãi, bị cáo dùng rựa chém 01 nhát hướng từ trên cao xuống trúng vào tay trái của ông E gây thương tích. Theo Kết luận của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định thì tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 24%. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “Dùng hung khí nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự, trị an tại nơi xảy ra vụ án, nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhất thời phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Canh thu giữ vật chứng là 01 (một) cây rựa tổng kích thước 82cm. Trong đó, lưỡi có kích thước (24x05)cm, cán bằng tre dài 58cm. Xét thấy cây rựa là tài sản của bà Lê Thị T nhưng do bị cáo lén lấy và dùng để chém bị hại gây thương tích. Hiện tại cây rựa còn giá trị sử dụng và bà T đề nghị trả lại cây rựa cho bà T, nên áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cây rựa cho bà Lê Thị T.

[7] Về bồi thường thiệt hại: Xét các khoản tiền bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường là 71.130.000đ, nhận thấy:

[7.1] Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì bị hại vào viện ngày 20/3/2019, ra viện ngày 27/3/2019, như vậy thời gian điều trị tại bệnh viện là 08 ngày. Hội đồng xét xử chấp nhận khoản tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa có chứng từ hợp pháp là 296.000đ, tiền thuê phương tiện đi lại theo thực tế là 300.000đ. Các khoản tiền gồm: Chi phí chụp X quang ngày 20/3/2019 với số tiền là 94.000đ; chi phí cận lâm sàng ngày 24/4/2019 với số tiền 340.000đ, bị hại không cung cấp được chứng từ hợp pháp nên không được chấp nhận.

[7.2] Đối với tiền thu nhập thực tế bị mất của bị hại và người chăm sóc cho bị hại: Bị hại làm công việc nhà, chăm sóc cháu để các con đi làm, còn người chăm sóc cho bị hại làm nông, theo xác nhận của chính quyền địa phương thì mức thu nhập bình quân là 150.000đ/ngày. Do đó, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị tại bệnh viện là 08 ngày cộng với 30 ngày nghỉ điều trị ổn định sức khỏe, tổng thời gian là 38 ngày x 150.000đ/ngày = 5.700.000đ; thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại là 08 ngày x 150.000đ/ngày = 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

[7.3] Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: Căn cứ vào thương tích của bị hại, Hội đồng xét xử chấp nhận mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 15 lần mức lương cơ sở, thành tiền là: 15 tháng x 1.490.000đ/tháng = 22.350.000đ (Hai mươi hai triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

[7.4] Như vậy, tổng số tiền bị thiệt hại của bị hại Đinh Bá E gồm viện phí, tiền thuê phương tiện đi lại, thu nhập thực tế bị mất và tổn thất về tinh thần là 29.846.000đ (Hai mươi chín triệu tám trăm bốn mươi sáu nghìn đồng). Theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, các điều 357, 584, 585 và 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bị cáo Võ Ngọc H phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại trên cho bị hại Đinh Bá E. Về các khoản tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại còn lại là 41.284.000đ, bị hại không cung cấp được chứng từ hợp lệ và yêu cầu của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.492.000đ (Một triệu bốn trăm chín mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội. Bị hại được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh về phần hình phạt là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về bồi thường thiệt hại.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

- Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc H phạm tội “Cố ý gây thương tích”

- Xử phạt bị cáo Võ Ngọc H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 590 và 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Võ Ngọc H phải bồi thường thiệt hại cho bị hại Đinh Bá E số tiền là 29.846.000đ (Hai mươi chín triệu tám trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho bà Lê Thị T 01 cây rựa có tổng chiều dài là 82cm. Trong đó, lưỡi rựa có kích thước (24x05)cm, cán bằng tre dài 58cm (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 7 năm 2019 giữa Công an huyện Vân Canh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vân Canh).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Võ Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.492.000đ (Một triệu bốn trăm chín mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại không được chấp nhận.

5. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tng hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Canh - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về